Đối với một bài thi Task One thì thông thường chúng ta sẽ phải viết một bản mô tả ngắn gọn nội dung của một trong số những dạng sau:
Bốn dạng: biểu đồ đường (line graphs), biểu đồ cột (bar charts), bảng số liệu (tables of figures) và biểu đồ tròn (pie charts) mặc dù có hình dạng khác nhau, tuy nhiên nội dung và ngôn ngữ chúng ta viết thông thường là tương tự nhau. Chỉ có một điểm chúng ta cần lưu ý đó là các dạng trên có thể chia ra thành “loại có dữ liệu thay đổi theo thời gian và loại không có”. Việc có hay không có dữ liệu thay đổi theo thời gian sẽ dẫn đến cách viết và nội dung viết về chúng hoàn toàn khác nhau.
Trong dạng biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì dữ liệu không chỉ của một mốc thời gian cố định mà chúng thay đổi qua nhiều mốc thời gian khác nhau. Tất cả các dạng line graphs, bar charts, pie charts và tables đều có thể chứa dữ liệu thay đổi qua một khoảng thời gian nào đó.
Trước khi bước vào phần hướng dẫn viết nội dung cho phần giới thiệu thì chúng ta cần nắm được sự tương đồng giữa các dạng biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian. Điều này sẽ giúp chúng ta có thể xác định được công thức chung để mô tả các biểu đồ/bảng số liệu có hình dạng không giống nhau nhưng truyền tải nội dung như nhau. Việc này không chỉ đóng vai trò quan trọng cho phần này mà còn toàn bộ bài Task One của chúng ta.
Chúng ta đã biết là thông thường sẽ có bốn dạng: line graphs, bar charts, tables và pie charts, trong bốn dạng này thì có thể nói ba dạng đầu là tương đồng với nhau nhất.
Hãy quan sát biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ đường (line graphs) trên thể hiện mức tiêu thụ của bốn loại thức ăn nhanh chính ở một quốc gia châu Âu. Tuy nhiên nếu đề bài không sử dụng biểu đồ đường để thể hiện thì một biểu đồ cột thể hiện nội dung tương đương có thể được dùng để thay thế. Hay nói các khác là chúng ta có thể chuyển biểu đồ trên sang dạng biểu đồ cột như dưới đây:
Lưu ý là đối với dạng biểu đồ cột (bar charts) đề bài còn có thể vẽ chúng theo một cách khác, khi mà trục X không dùng để chỉ các mốc thời gian mà là tên của các đối tượng, thay vào đó thời gian được thể hiện bằng các cột thành phần. Tuy nhiên nội dung của chúng sẽ vẫn tương tự như nhau:
Như vậy mặc dù có hình dạng như thế nào thì nội dung của các biểu đồ trên là hoàn toàn như nhau, công việc của chúng ta là phải nắm rõ các cách thể hiện khác nhau này để có thể nhanh chóng nhận dạng được chúng trong phòng thi.
Ngoài ra nếu đề bài không dùng hai loại biểu đồ trên thì một bảng số liệu (tables of figures) cũng hoàn toàn có thể được dùng để thay thế:
Year | Hamburgers | Fried Chicken | Salads | Fried Rice |
---|---|---|---|---|
2005 | 40 | 35 | 5 | 15 |
2010 | 38 | 37 | 15 | 10 |
2015 | 51 | 45 | 41 | 7 |
Chỉ có một chút khác biệt là đối với dạng tables thì các số liệu được cho luôn mang giá trị chính xác, còn đối với line graphs và bar charts thì thường chúng ta sẽ xác định các số liệu mang giá trị là “vào khoảng” hay “xấp xỉ”.
Nhìn chung thì cả ba dạng biểu đồ/bảng số liệu trên là tương đồng, vì vậy cách mô tả chúng sẽ không có nhiều sự khác nhau.
Đối với dạng biểu đồ tròn (pie charts) thì điều làm nó có nhiều sự khác biệt hơn các dạng còn lại đó là, thông thường, một biểu đồ tròn chỉ có thể thể hiện dữ liệu của một mốc thời gian nào đó, chính vì vậy chúng ta sẽ thường gặp dạng có ít nhất từ hai biểu đồ tròn trở nên giống như hình dưới đây:
Khi chúng ta gặp dạng có từ hai biểu đồ tròn trở nên như trên thì cách xử lý chúng cũng sẽ tương tự như các dạng còn lại.
Lưu ý là chúng ta không xét nhiều đến dạng đơn (dạng mà các biểu đồ đường, cột, bảng số liệu chỉ có một đối tượng, hay dạng chỉ có một biểu đồ tròn) vì đề bài cũng rất ít ra các biểu đồ/bảng số liệu đơn giản như vậy, thường nếu có thì chúng sẽ được đi kèm thêm với một biểu đồ khác (dạng hỗn hơp). Mặc dù vậy các bạn cũng không cần phải lo lắng bởi vì nếu có gặp các dạng đơn này thì nó chỉ làm cho chúng ta dễ dàng hơn khi viết bài Task One của mình mà thôi.
Để viết được phần giới thiệu cho dạng biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian chúng ta cần xác định những thông tin quan trọng dưới đây:
Chính là xác định xem biểu đồ thuộc loại nào trong bốn loại đã được nêu. Mặc dù vậy chúng ta không nhất thiết luôn phải viết chính xác tên của mỗi loại mà có thể ghi chung là the graph/chart đều được.
Đây là thông tin có thể coi là quan trọng nhất và luôn cần phải được đưa vào phần giới thiệu. Chúng ta lập một biểu đồ chính là để đo lường về một yếu tố nào đó, ví dụ như về mức độ ô nhiễm không khí (air pollution levels), về số lượng học sinh (numbers of students) hay về sản lượng xuất khẩu cà phê (coffee exports)….
Đối với loại biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì đây chính là đại lượng thay đổi trong khoảng thời gian được cho.
Lưu ý là không phải lúc nào câu hỏi đề bài cũng cho sẵn tên của yếu tố này, mà đôi khi chỉ cho các thông tin chung chung, điều chúng ta cần làm đó là quan sát thêm ở trên biểu đồ để xác định rõ cái gì đang được đo lường.
Ký hiệu: \([Y]\) (được dùng nhiều ở các phần sau)
Một biểu đồ hiếm khi chỉ đề cập về một đối tượng duy nhất, vì mục đích chúng được lập ra là để so sánh giữa các đối tượng với nhau.
Các đối tượng này thường nằm trên các biểu đồ hơn là trong câu hỏi đề bài như trên. Quan sát ở ví dụ bên dưới để biết cách xác định các đối tượng này.
Khoảng thời gian cần phải luôn được bao gồm.
Bây giờ hãy quan sát ví dụ mẫu dưới đây về cách xác định các thông tin nêu trên.
Example A
The line graph below shows information about different forms of transport used in Taiwan for weekend activities in 1960, 1980 and 2000.
Sau khi đọc hiểu đề bài và quan sát biểu đồ thì chúng ta có thể điền được các thông tin vào cột bên phải trong bảng dưới đây:
1. Loại biểu đồ | line graph |
2. Yếu tố được đo lường | proportions of travellers |
3. Các đối tượng | four different forms of transport: car, bus, bicycle, foot |
4. Khoảngthờigian | 1960 to 2000 |
Phần thông tin xác định khó khăn hơn các mục còn lại một chút là ở mục 2 (yếu tố được đo lường), tuy nhiên dựa vào biểu đồ thì chúng ta dễ dàng biết được biểu đồ đang đo lường về tỷ lệ người di chuyển (proportions of travellers) bằng bốn loại phương tiện.
Công việc tiếp theo của chúng ta đó là sử dụng các từ/cụm từ đồng nghĩa để diễn đạt các thông tin chúng ta vừa xác định được và một số từ ngữ được lấy từ đề bài theo một cách khác.
Trước tiên hãy đọc lại phần thông tin nằm ở đề bài đã cho:
The line graph below shows information about different forms of transport used in Taiwan for weekend activities in 1960, 1980 and 2000.
Dựa vào đề bài này kết hợp với việc thêm các thông tin đã tìm được ở trang trước, chúng ta cơ bản có thể viết được một phần giới thiệu như sau:
The line graph shows the proportions of travellers using four different forms of transport, namely cars, buses, bicycles and walking in Taiwan for weekend activities from 1960 to 2000.
Chúng ta thấy các từ ngữ như “below”, “information” của đề bài đã được loại bỏ, ngoài ra khi lấy thông tin được ghi trên biểu đồ thì chúng ta cần thận trọng vì thông tin ghi trên biểu đồ thường được viết ngắn gọn, vì vậy chúng thường bị bỏ đi các mạo từ (a, an, the), các giới từ (at, in, on…) hay dạng số nhiều bị chuyển vì dạng số ít… so với khi đặt chúng vào một câu hoàn chỉnh. Chính vì vậy foot được viết thành walking để đúng về mặt ngữ pháp.
Đoạn giới thiệu này đã hay hơn đoạn mẫu được cho bởi đề bài. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể làm cho nó tốt hơn nữa khi thực hiện những bước tiếp theo.
The line graph displays/illustrates/indicates/reveals the changes in the percentage of travelers who use four different forms of transport, namely cars, buses, bicycles and walking in Taiwan for weekend activities over the course of 40 years starting in 1960.
Tiếp theo chúng ta cũng có thể paraphrase cụm từ chỉ thời gian “from 1960 to 2000” thành một trong những cụm sau:
Hai cách trên đây dùng cho các cụm luôn tồn tại trong phần giới thiệu của dạng có dữ liệu thay đổi theo thời gian. Chúng ta có thể sử dụng chúng thường xuyên để nâng cấp câu văn của mình.
Ngoài ra chúng ta cũng cần sử dụng từ đồng nghĩa thay cho các từ khác, với forms, transport, used, bicycles, activities có thể được thay thế tương đương bằng types, transportation, taken, bikes và events.
Lưu ý là chúng ta không nhất thiết phải paraphrase toàn bộ các từ đã cho, bởi vì có những từ ngữ sẽ hay hơn và truyền tải chính xác được nghĩa nếu giữ nguyên chúng.
Từ việc sử dụng thêm các từ/cụm từ đồng nghĩa chúng ta có thể tạo ra một phần giới thiệu hoàn chỉnh như dưới đây:
The graph displays the changes in the proportions of travellers taking four different types of transportation, namely cars, buses, bikes and walking in Taiwan for weekend events over a 40-year period from 1960 to 2000.
The line graph compares the changes in the percentage of travelers who take four different forms of transportation, namely cars, buses, bikes and walking in Taiwan for weekend events over the course of 40 years starting in 1960.
Nếu đoạn văn của chúng ta đã tương đối dài thì chúng ta có thể không cần liệt kê ra tên của các đối tượng cụ thể cars, buses, bikes, walking.
Như vậy chúng ta đã nắm được các bước để viết một phần introduction hoàn chỉnh cho dạng biểu đồ đường, cơ bản các dạng khác với dữ liệu thay đổi theo thời gian cũng sẽ có cách viết tương tự. Các bạn cũng có thể quan sát thêm ví dụ dưới đây:
Example B
The table below gives information about the amount of money spent on three different goods in Germany from 1980 to 1995.
Alcohol | Drugs | Tobacco | |
---|---|---|---|
1980 | 100 | 50 | 30 |
1985 | 80 | 60 | 60 |
1990 | 150 | 100 | 50 |
1995 | 90 | 75 | 75 |
Đầu tiên chúng ta cũng xác định được các thông tin quan trọng sau cho phần giới thiệu của mình dựa vào đề bài và bảng số liệu trên:
1. Loại biểu đồ | table |
2. Yếu tố được đo lường | the amount of money spent |
3. Các đối tượng | alcohol, drugs and tobacco |
4. Khoảng thời gian | 1980 to 1995 |
Dựa vào đề bài, các thông tin tìm được trong bảng trên kết hợp với việc sử dụng các từ/cụm từ đồng nghĩa chúng ta có được phần giới thiệu hoàn chỉnh như dưới đây:
The table illustrates the changes in the expenditure on three different products, namely alcohol, drugs and tobacco in Germany over a 15-year period from 1980 to 1995.
Tương tự như Example A và B bây giờ hãy đọc kỹ đề bài và quan sát biểu đồ, điền các thông tin còn thiếu vào trong bảng. Sau đó dựa vào những hướng dẫn ở trên sử dụng các từ/cụm từ đồng nghĩa để viết những introductions hoàn chỉnh cho Exercise A và B. Xem phần hướng dẫn và câu trả lời mẫu ở phần Answer Key.
Exercise A
The graph below shows the amount of fast food consumed in a European country from 2005 to 2015.
The bar chart shows the amount of four types of fast food consumed in a European country from 2005 to 2015.
The bar chart displays the changes in the consumption of four types of fast food in a particular European country over a 10-year period from 2005 to 2015.
Exercise B
The charts below give information about the export of five different products from Australia in 2000 and 2005.
The pie charts give information about the proportions of five different products exported from Australia in 2000 and 2005.
The pie charts illustrate the changes in the proportions of five different commodities exported from Australia in the years 2000 and 2005.
Mặc dù theo bảng thống kê tỷ lệ xuất hiện của dạng này thì chúng chiếm số lượng khá ít, tuy nhiên cần lưu ý là chúng ta cũng có thể gặp chúng trong dạng hỗn hợp (Unit 4).
Cũng tương tự như dạng biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì trong dạng này mặc dù có nhiều loại biểu đồ/bảng số liệu với hình dạng khác nhau nhưng phần lớn chúng cũng truyền tải nội dung như nhau. Ngoại trừ biểu đồ đường (line graphs) luôn chứa dữ liệu thay đổi theo thời gian), trong dạng này chúng ta chỉ gặp ba loại: bar charts, tables và pie charts.
Hãy quan sát bảng số liệu dưới đây:
The table below gives information about the number of moviegoers (in millions) by country.
Romance | Comedy | Action | Horror | |
---|---|---|---|---|
Japan | 5.5 | 5 | 8.1 | 3.2 |
India | 8.5 | 7.5 | 9 | 3.5 |
New Zealand | 5.5 | 4.9 | 8.2 | 5.7 |
Ireland | 4.8 | 6.5 | 8.6 | 7.4 |
Bảng số liệu trên thể hiện số lượng người tới rạp coi phim ở bốn quốc gia khác nhau. Và tương tự thì biểu đồ này cũng có thể được thể hiện bằng một bar chart có nội dung tương đương như dưới đây:
Chúng ta cũng cần lưu ý là dạng bar chart trên cũng có thể được biến đổi tương đương thành:
Như vậy dù đề bài có sử dụng dạng nào trong các dạng trên thì chúng ta cũng mô tả chúng tương tự như nhau.
Đối với dạng biểu đồ tròn, thì cũng giống như dạng biểu đồ tròn có dữ liệu thay đổi theo thời gian, thông thường đề bài sẽ cho chúng ta từ hai biểu đồ tròn trở nên để có thể so sánh chúng với nhau. Bản chất thì chúng cũng sẽ tương tự như các dạng còn lại.
Như chúng ta đã biết ở phần trước, khi viết phần giới thiệu cho một biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì điều đầu tiên chúng ta cần làm đó là xác định bốn loại thông tin dưới đây:
Đối với các biểu đồ/bảng số liệu thuộc dạng chúng ta đang xét sẽ không có mục 4, vì dạng này không thể hiện sự thay đổi của số liệu theo thời gian.
Tuy nhiên đề bài có thể đề cập đến toàn bộ số liệu trong biểu đồ là của một mốc thời gian cố định (tháng, năm…) nào đó thì chúng ta cũng cần đề cập đến nó trong phần giới thiệu của mình.
Như vậy sẽ vẫn có 4 thông tin chúng ta cần xác định đó là:
Trong mục 3, vì dạng này không các mốc thời gian nên sẽ có thêm một loại thông tin khác và chúng cũng được liệt kê ra thành nhiều đối tượng khác nhau. Công việc của chúng ta là xác định và đề cập đến cả hai loại đối tượng. Hãy quan sát Example B ở phần sau để hiểu rõ hơn.
Sau khi xác định được các thông tin ở phần trước thì tương tự chúng ta cũng cần sử dụng các từ/cụm từ đồng nghĩa để paraphrase chúng và một số từ ngữ được lấy ở đề bài.
Lưu ý trong dạng này bởi vì không có sự thay đổi của dữ liệu theo thời gian nên khi sử dụng các từ/cụm từ đồng nghĩa để nâng cấp câu văn của mình chúng ta không sử dụng ngôn ngữ thể hiện sự thay đổi.
Tổng kết lại thì các bước viết một phần introduction cho dạng biểu đồ/bảng số liệu có hay không có dữ liệu thay đổi theo thời gan là tương tự như nhau chỉ có một số sự khác biệt như trên.
Bây giờ hãy quan sát ví dụ dưới đây để hiểu rõ hơn.
Example B
The table below shows the amount of money spent on five consumer goods in four countries in Europe.
Consumer goods | Britain | France | Italy | Germany |
---|---|---|---|---|
CDs | 154 | 122 | 142 | 138 |
Toys | 160 | 131 | 145 | 139 |
Photographic film | 165 | 155 | 150 | 137 |
Perfumes | 150 | 127 | 142 | 139 |
Tennis racquets | 157 | 145 | 142 | 139 |
Nhìn vào bảng số liệu trên thì chúng ta thấy các mốc thời gian của phần trước lúc này được thay thế bằng tên của các quốc gia (hoặc tên của các loại hàng hóa) trong dạng này, chính vì vậy khi xác định thông tin ở mục 3 chúng ta sẽ có hai loại đối tượng khác nhau.
1. Loại biểu đồ | table |
2. Yếu tố được đo lường | the amount of money spent |
3. Các đối tượng | five consumer goods and four countries |
Vì có tới 5 loại hàng hóa tiêu dùng nên tên cụ thể của chúng không nên được liệt kê, tuy nhiên chúng ta có thể liệt kê ra tên của các quốc gia. Trong những trường hợp khác khi số lượng/độ dài của hai loại đối tượng là tương đương nhau thì quyết định liệt kê ra tên của loại nào là của chúng ta. Lưu ý ở đây đang nói về việc liệt kê ra “tên cụ thể” của các đối tượng, còn những danh từ chung của chúng như “consumer goods” và “countries” chúng ta tất nhiên vẫn phải bao gồm ở phía trước.
Dựa vào đề bài kết hợp với việc thêm các thông tin đã tìm được ở trên, chúng ta cơ bản có thể viết được một phần giới thiệu như sau:
Câu đề bài:
The table below shows the amount of money spent on five consumer goods in four countries in Europe.
Phần giới thiệu:
The table shows the amount of money spent on five consumer goods in four countries in Europe, namely Britain, France, Italy and Germany.
Phần giới thiệu của chúng ta đã đủ dài tuy nhiên nó lặp lại đề bài tương đối nhiều, chính vì vậy chúng ta cần sử dụng thêm các từ/cụm từ đồng nghĩa để làm nó hay hơn.
Vì bảng số liệu này không có khoảng thời gian nên nó chỉ thể hiện sự so sánh, và chúng ta có thể paraphrase cụm “the table shows” thành “the table makes a comparison of”.
Sử dụng kết hợp với các từ/cụm từ đồng nghĩa khác chúng ta có được phần introduction hoàn chỉnh như dưới đây:
The table compares/makes a comparison of/displays the differences in the expenditure on five different items from four European countries, namely Britain, France, Italy and Germany.
Exercise C
The pie charts below give information about water usage in three regions of the world: North America, Southeast Asia and Europe.
Đọc kỹ đề bài và quan sát biểu đồ, điền các thông tin vào bảng dưới đây:
Viết một phần introduction hoàn chỉnh sau khi hoàn thành bảng trên.
Exercise D
The graph below gives information about air pollution levels in four countries in 2011.
Đọc kỹ đề bài và quan sát biểu đồ, điền các thông tin vào bảng dưới đây:
Viết một phần introduction hoàn chỉnh sau khi hoàn thành bảng trên.
Trước tiên hãy theo dõi ví dụ dưới đây:
Example A
The graph below shows the amount of fast food consumed in a European country from 2005 to 2015.
Chúng ta đã biết được là nội dung của một phần tổng quan thì luôn phải là những thông tin quan trọng, chung và khái quát nhất.
Ngoài ra yêu cầu của đề bài luôn là “selecting and reporting the main features, and make comparisons where relevant”, vì vậy làm cách nào để chúng ta vừa có thể chọn lọc ra những thông tin quan trọng đồng thời kết hợp so sánh giữa các đối tượng khi có thể?
Dưới đây là hai cách xác định thông tin cho phần tổng quan mà chúng ta có thể thường xuyên áp dụng để tìm thông tin cho phần này:
Trong dạng có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì giá trị của các đối tượng luôn thể hiện sự thay đổi theo thời gian (tăng, giảm, dao động hoặc không thay đổi), chính vì vậy chúng ta cần quan sát xem khuynh hướng của các đối tượng là gì để đề cập vào phần này.
Thông thường chúng ta sẽ cần đề cập đến khuynh hướng chung của tất cả (hoặc phần lớn) các đối tượng là gì. (Trong trường hợp các đối tượng không thể hiện một khuynh hướng chung thì nếu được chúng ta cũng có thể nhóm chúng thành hai nhóm với hai khuynh hướng khác nhau). Tóm lại điều chúng ta cần ở đây là đề cập đến khuynh hướng của nhiều đối tượng nhất có thể và theo một cách ngắn gọn nhất có thể. Lưu ý là vì chúng ta đang cần tìm những thông tin chung và khái quát nhất, nên các khuynh hướng này cũng phải đúng trong toàn bộ (hoặc phần lớn) khoảng thời gian đang xét.
Trong ví dụ trên chúng ta thấy có bốn đối tượng đó là “hamburgers”, “fried chicken”, “salads” và “fried rice”. Xét cả bốn đối tượng này thì ngoại trừ “fried rice” thì mức tiêu thụ của các đối tượng còn lại nhìn chung đều tăng qua giai đoạn này, vì vậy chúng ta có thể viết:
The consumption of all types of fast food increased over this period of time with the exception of fried rice.
Nếu như có quá nhiều đối tượng thể hiện quá nhiều khuynh hướng khác nhau, không có điểm gì chung thì chúng ta có thể không cần đề cập đến thông tin của phần này và chọn cách xác định thông tin dưới đây.
Chúng ta cũng cần so sánh để tìm ra (các) đối tượng nào luôn mang giá trị lớn hơn các đối tượng còn lại trong toàn bộ (hoặc phần lớn) khoảng thời gian được xét.
Ngoài ra chúng ta cũng có thể đề cập đến (các) đối tượng nào luôn mang giá trị nhỏ hơn các đối tượng còn lại, tuy nhiên ý này ít được ưu tiên hơn.
Nhìn vào biểu đồ chúng ta thấy lượng hamburgers được tiêu dùng luôn lớn hơn của các đối tượng còn lại. Từ đây chúng ta có thể viết:
The amount of hamburgers consumed was greater than that of the other three choices over this period of time.
Chúng ta thấy lượng tiêu dùng của fried chicken cũng gần tương tự như của hamburgers và cao hơn hai đối tượng còn lại, nên chúng ta cũng có thể viết theo cách khác thành: The amount of hamburgers and fried chicken consumed was always greater than that of the other two categories over this period of time.
Như vậy bây giờ chúng ta đã biết được hai cách để xác định những thông tin chính cho một phần tổng quan. Lưu ý là đa số nhưng không phải bất cứ phần tổng quan nào cũng bao gồm cả hai loại thông tin này, có nhiều trường hợp biểu đồ chỉ thể hiện rõ một trong hai loại thông tin, trong tình huống này thì chúng ta có thể chỉ sử dụng một câu cho phần tổng quan của mình.
Bây giờ chúng ta chỉ việc ghép hai loại thông tin đã tìm được ở trên lại với nhau, và vì tìm được cả hai ý nên chúng ta có thể dùng thêm các từ nối, ví dụ như “in addition” hoặc “additionally” để nối hai thông tin lại với nhau. Chúng ta có được phần tổng quan như dưới đây:
The consumption of all types of fast food increased over this period of time with the exception of fried rice. In addition, the amount of hamburgers and fried chicken consumed was always greater than that of the other two choices.
Như chúng ta đã biết thì một bài Task One sẽ có nhiều “paragraphs”, và lại có nhiều cách sắp xếp các paragraphs này khác nhau, chính vì vậy trước khi bắt đầu viết một overview thì chúng ta nên cho người đọc (giám khảo) biết cái họ đang đọc là phần tổng quan, bằng cách sử dụng thêm các từ/cụm từ giới thiệu ở đầu câu.
Phía dưới đây là một số từ/cụm từ giới thiệu phổ biến nhất chúng ta có thể dùng trong phần overview, tất cả đều có thể sử dụng thay cho nhau mà không có bất cứ vấn đề nào cả:
Những cụm từ này sẽ được sử dụng trong tất cả những ví dụ mẫu trong quyển eBook này.
Sử dụng thêm một trong những từ/cụm từ giới thiệu trên chúng ta sẽ viết được phần overview hoàn chỉnh cho Example A như dưới đây:
Overall, the consumption of all types of fast food increased over this period of time with the exception of fried rice. In addition, the amount of hamburgers and fried chicken consumed was always greater than that of the other two choices.
Một số điểm chúng ta cần lưu ý khi viết phần tổng quan khác là:
Cố gắng không sử dụng “số” khi viết phần này, chỉ sử dụng chữ để truyền tải thông tin của mình. Lý do bởi vì số liệu cụ thể nên nằm ở trong phần thân bài, đó mới là khi mà chúng ta cần phải đi vào chi tiết. Thậm chí chúng ta không cần đề cập đến các mốc thời gian, bởi vì nếu đề cập đến một mốc thời gian cụ thể nào đó (ví dụ như 2012) thì thông tin đó không còn là tổng quát của toàn bộ khoảng thời gian nữa.
Ngoài ra thông tin khái quát không có nghĩa là chúng ta chỉ dùng những cụm chung chung mà không mang nghĩa xác định, ví dụ như nhiều người viết hay dùng các cụm “có nhiều sự khác nhau giữa các đối tượng (there are many differences)” hay “có nhiều sự thay đổi (there are many changes)”. Đây là những cụm mà chúng ta hay tìm thấy ở một số tài liệu hướng dẫn kém chất lượng, sử dụng những câu như thế này thể hiện việc chúng ta không tìm được những thông tin cụ thể cho phần tổng quan của mình, dẫn đến bài viết của chúng ta sẽ chỉ dừng ở band 5 hoặc thấp hơn. Đọc phần tổng quan mẫu ở trên thì chúng ta có thể thấy mặc dù các thông tin đưa ra đều tổng quát, tuy nhiên chúng đều mang một ý nghĩa xác định và được tìm ra từ việc phân tích và chọn lọc thông tin từ biểu đồ.
Hãy quan sát thêm ví dụ dưới đây để hiểu rõ thêm cách viết phần tổng quan:
Example B
The graph below shows the production of energy from coal in three different countries from 1995 to 2015.
Trước tiên chúng ta thấy biểu đồ trên có ba đối tượng là Algeria, Saudi Arabia và Romania.
Bây giờ để xác định thông tin cho phần tổng quan trước tiên chúng ta sẽ xét sự tăng giảm giá trị của các đối tượng:
Trong phần lớn khoảng thời gian đang xét này thì chúng ta thấy Algeria và Saudi Arabia có khuynh hướng giảm còn Romania có khuynh hướng tăng. Từ đây chúng ta có thể viết được một ý đó là:
The production of energy from coal declined in Algeria and Saudi Arabia over the time period, while it increased dramatically in Romania.
Lưu ý chúng ta không cần lặp lại khoảng thời gian từ 1995 to 2015 ở đây vì chúng đã đề cập ở phần introduction.
Tiếp theo chúng ta sẽ so sánh độ lớn của các đối tượng:
Ta cũng thấy là phần lớn thời gian (ngoại trừ năm cuối) thì mặc dù sản lượng của Algeria luôn giảm dần nhưng nó luôn cao hơn sản lượng của hai quốc gia còn lại.
Từ đây chúng ta có thể viết ý tiếp theo là:
Algeria produced more energy from coal than the other two countries in four out of the five years.
Như vậy chúng ta có thể xác định được cả hai ý cho phần tổng quan từ biểu đồ này, bây giờ chúng ta chỉ cần sử dụng thêm các “từ/cụm từ giới thiệu” và “từ nối” để tạo ra phần overview của mình như sau:
In general, the production of energy from coal declined in Algeria and Saudi Arabia over the time period, while it increased dramatically in Romania. However, Algeria produced more energy from coal than the other two countries in four out of the five years.
Trường hợp này chúng ta có thể dùng “however” vì hai ý này chúng ta thấy chúng có quan hệ tương phản với nhau. Nếu không có quan hệ này chúng ta có thể dùng “additionally” hay “in addition” để thêm ý như bình thường.
Như vậy dựa vào ví dụ A, B thì chúng ta có thể nắm rõ được cách viết một phần tổng quan cho dạng biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian. Đối với dạng bảng số liệu thì ngoài việc dữ liệu được thể hiện rõ dưới dạng số thì chúng ta cũng làm hoàn toàn tương tự như trên.
Lưu ý một lần nữa là rất nhiều lúc chúng ta sẽ chỉ xác định được một trong hai loại thông tin trên, vì vậy phần overview của chúng ta cũng có những trường hợp sẽ chỉ bao gồm một ý duy nhất, trong trường hợp này chúng ta vẫn cần dùng thêm các từ/cụm từ giới thiệu tuy nhiên không cần sử dụng các từ nối.
Exercise A
Hãy viết phần giới thiệu và tổng quan cho bài tập dưới đây.
The bar chart below shows information on the CO2 emissions from energy production in several countries around the world from 2000 to 2010.
The bar chart displays the changes in carbon dioxide emissions as a
result of energy generation in five distinct parts of the world over the
period 2000 to 2010.
Generally speaking, the emission of CO2 in four out of the five
countries increased over this time period. Additionally, CO2 levels were
significantly higher in China and the US than in the other three regions
in all years.
Lưu ý là chúng ta cũng rất hay gặp dạng biểu đồ cột như trên, với các mốc thời gian không nằm ở trục hoành mà thay vào đó là các đối tượng. Tuy nhiên nó cũng chỉ là một cách vẽ khác của dạng biểu đồ cột có dữ liệu thay đổi theo thời gian.
Exercise B
Hãy viết phần giới thiệu và tổng quan cho bài tập dưới đây.
The table below gives information about the average number of people (in millions) travelling each day by car, bus or train in the UK from 1990 to 2030.
Year | Car | Bus | Train |
---|---|---|---|
1990 | 6.0 | 3.9 | 2.5 |
2000 | 6.9 | 3.8 | 3.0 |
2010 | 7.2 | 3.7 | 3.1 |
2020 | 7.6 | 3.4 | 4.0 |
2030 | 8.8 | 3.0 | 5.0 |
Nhìn chung các dạng: biểu đồ đường (line graphs), biểu đồ cột (bar charts) và bảng số liệu (tables of figures) khi có dữ liệu thay đổi theo thời gian (hay nói cách khác là có nhiều mốc thời gian) có cách xác định thông tin cho phần giới thiệu và tổng quan hoàn toàn như nhau.
Tuy nhiên đối với dạng biểu đồ tròn thường sẽ phải cần ít nhất từ hai biểu đồ trở nên mới có thể thể hiện sự thay đổi của dữ liệu theo thời gian. Vì biểu đồ tròn có một số tính chất đặc biệt nên cách xác định thông tin cho phần tổng quan của nó cũng có một chút khác biệt với các dạng còn lại. Bây giờ chúng ta sẽ xét dạng pie charts hay gặp nhất với “hai mốc thời gian”. Hãy quan sát ví dụ dưới đây:
Example C
The charts below give information about the export of five different products from Australia in 2000 and 2005.
Đây là ví dụ chúng ta đã xét ở Unit 1 (Exercise B)
Trước hết nhìn vào các biểu đồ thì chúng ta thấy giai đoạn đang xét là từ 2000 đến 2005, đồng thời có 5 đối tượng có tỷ lệ thay đổi theo thời gian : iron, coal, meat, wheat và vehicles.
Để xác định thông tin cho phần tổng quan ở ví dụ này chúng ta cũng có thể dựa vào hai đặc điểm:
Chúng ta cần đề cập đến (các) đối tượng nào thể hiện sự thay đổi (tăng/giảm) đáng kể nhất. Và nếu không có đối tượng nào thể hiện sự thay đổi đáng kể thì chúng ta có thể không cần đề cập đến ý này.
Trong ví dụ trên thì chúng ta thấy “coal” tăng nhiều nhất (10%) còn “iron” và “wheat” giảm nhiều nhất, lần lượt là 7% và 6%. Từ ý này chúng ta có thể viết:
The percentage of coal exported grew significantly over these five years, creating corresponding drops in those of iron and wheat sold abroad.
Chúng ta cần đề cập đến (các) đối tượng nào luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (hoặc thấp nhất) trong cả hai năm.
Tất nhiên cũng giống như các dạng khác, không phải lúc nào chúng ta cũng tìm được (các) đối tượng luôn chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả hai năm. Nếu có hai (hoặc các) đối tượng khác nhau chiếm tỷ lệ cao nhất ở mỗi năm thì chúng ta có thể đề cập như vậy vào phần tổng quan.
Ở ví dụ trên chúng ta có thể thấy trong cả hai năm thì iron và coal đều là những đối tượng chiếm tỷ lệ nhều nhất, trong khi vehicles luôn chiếm tỷ trọng thấp nhất vì vậy có thể đưa hai ý này vào phần tổng quan. Từ ý này chúng ta có thể viết:
Coal and iron were the chief exports of Australia in both years, while exports of vehicles remained the smallest.
Như vậy sử dụng thêm các từ/cụm từ giới thiệu và từ nối để gộp cả hai ý đã tìm được bây giờ chúng ta có thể viết được một phần tổng quan như sau:
Overall, coal and iron were the chief exports of Australia in both years, while exports of vehicles remained the smallest. Additionally, the percentage of coal exported grew significantly over these five years, creating corresponding drops in those of iron and wheat sold abroad.
Exercise C
Hãy viết phần giới thiệu và tổng quan cho bài tập dưới đây.
The pie charts below give information on tourism to Australia from different regions of the world over a period of 30 years.
Như vậy chúng ta đã nắm hết các đặc điểm chung của một phần tổng quan và cách viết phần tổng quan cho dạng biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian. Hình thức và các đặc điểm cơ bản của một phần tổng quan đối với dạng có dữ liệu “không” thay đổi theo thời gian cũng sẽ tương tự như những gì chúng ta đã thảo luận ở phần trước. Tuy nhiên nội dung của nó sẽ có một số điểm khác biệt, và chúng ta sẽ tìm hiểu về chúng trong phần này.
Trước tiên hãy quan sát lại ví dụ dưới đây (Exercise D, Unit 1):
Example C
The graph below gives information about air pollution levels in four countries in 2011.
Trong phần trước, để chọn được thông tin cho phần tổng quan thì chúng ta cần: - Xét khuynh hướng tăng/giảm của các đối tượng (1) - So sánh độ lớn của các đối tượng (2)
Tuy nhiên vì dạng này không có khoảng thời gian nên chúng ta sẽ bỏ phần (1), và chỉ xác định thông tin bằng cách so sánh độ lớn của các đối tượng.
Điểm khác biệt mà chúng ta đã thảo luận trong Unit 1 đó là dạng này có hai loại đối tượg chứ không phải là một loại như trong dạng có dữ liệu thay đổi theo thời gian.
Hai loại đối tượng trong ví dụ trên đó là: - Four countries: America, China, Japan and Australia. - Three sources: electricity production, transport and industry.
Hãy hình dung đơn giản là nếu chỉ có một loại đối tượng thì chúng ta sẽ so sánh chúng với nhau để tìm ra được một ý cho phần tổng quan. Tuy nhiên bây giờ có thêm một loại đối tương nữa thì chúng ta sẽ có thêm một cách để xác định ý thứ hai. Phần tổng quan là một phần rất quan trọng vì vậy nếu có thể xác định thêm một ý nữa sẽ mang đến khả năng nhận được điểm số cao hơn cho bài viết của chúng ta.
Trước tiên xét loại đối tượng thứ nhất là “four countries”:
Bây giờ chúng ta cần xét xem trong “bốn quốc gia”: America, China, Japan và Australia quốc gia nào có “cả ba cột nguyên nhân” gây ô nhiễm là lớn nhất (hoặc nhỏ nhất).
Trong các quốc gia thì chúng ta thấy China có các cột thành phần đều cao nhất so với các cột cùng loại ở các quốc gia khác, và Australia có các cột đều thấp nhất (trừ cột electricity production khi so với Japan).
Lưu ý đây là phần tổng quan nên giả sử nói quốc gia nào ô nhiễm nhất thì chúng ta phải xét trên cả ba nguyên nhân, giả sử China có hai cột cao nhất nhưng một cột lại rất thấp thì nói China có môi trường ô nhiễm nhất có vẻ sẽ không phù hợp.. Còn đối với Australia mặc dù cột electricity production của nó cao hơn của Japan một chút tuy nhiên nhìn chung thì chúng ta cũng có thể nói môi trường không khí của quốc gia này là sạch nhất.
Dựa vào hai thông tin tìm được chúng ta có thể viết được một câu cho phần tổng quan như sau:
China was the nation with the most contaminated air, while Australia’s atmosphere remained the least polluted.
Tiếp theo chúng ta xét loại đối tượng thứ hai là “three sources”:
Chúng ta cần xét xem trong “ba nguyên nhân”: electricity production, transport và industry, cái nào gây ô nhiễm nhiều nhất (hoặc ít nhất) ở “cả bốn quốc gia”.
Nhìn vào biểu đồ thì chúng ta thấy không có cột nguyên nhân nào luôn cao nhất ở cả bốn quốc gia, tuy nhiên electricity production (nếu không xét ở Australia) thì nó luôn là cột thấp hơn so với transport và industry ở ba quốc gia còn lại..
Như vậy chúng ta đã tìm được một thông tin nữa theo cách này:
Electricity generation produced the lowest amounts of air pollutants everywhere apart from Australia.
Thực ra chúng ta có thêm cách xác định này là vì biểu đồ chính có thể biến đổi thành:
Nhìn trong biểu đồ này thì chúng ta có thể thấy rõ ràng hơn electricity production là nguyên nhân gây ô nhiễm không khí ít nhất ở đa số các quốc gia.
Tất nhiên trong phòng thi chúng ta sẽ không có thời gian để vẽ ra một biểu đồ như trên, vì vậy chúng ta cần luyện tập nhìn một biểu đồ theo hai hướng như hướng dẫn.
Chúng ta cần nhớ là không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định được đối tượng nào luôn cao nhất và luôn thấp nhất. Chính vì vậy chúng ta nên xét cả hai trường hợp như trên để tìm thông tin, trong trường hợp cách thứ nhất không có thông tin rõ ràng thì chúng ta có thể chuyển qua xét cách thứ hai.
Cũng giống như phần trước sau khi xác định được các thông tin thì công việc còn lại trở nên rất đơn giản đó là ghép hai loại thông tin đã tìm được ở trên lại với nhau và: - Sử dụng thêm các từ/cụm từ giới thiệu phần tổng quan. - Dùng thêm các từ nối (chỉ trong trường hợp phần tổng quan có hai ý). Đây là phần tổng quan:
In general, China was the nation with the most contaminated air, while Australia’s atmosphere remained the least polluted. However, electricity generation produced the lowest amounts of air pollutants everywhere apart from the latter country.
Như vậy chúng ta đã biết cách viết một phần tổng quan hoàn chỉnh cho một biểu đồ cột. Đối với bảng số liệu (tables of figures) cách làm của chúng ta cũng xử lý tương tự và không có gì khác biệt so với dạng biểu đồ cột trên. Tuy nhiên đối với dạng biểu đồ tròn (pie charts) sẽ có đôi chút khác biệt.
Hãy quan sát bài tập dưới đây.
Exercise D
The pie charts below give information about the proportion of water used for three different purposes in six areas of the world.
Đối với dạng biểu đồ tròn thì chúng ta chỉ có một hướng so sánh để tìm ra thông tin cho phần tổng quan, trong trường hợp này chúng ta cần: Xét trong ba mục đích của việc sử dụng nước thì mục đích nào luôn chiếm tỷ lệ nhiều nhất (hoặc ít nhất) ở tất cả (hoặc phần lớn) các quốc gia.
Giả sử nếu như trong trường hợp không có một mục đích nào luôn chiếm tỷ lệ cao hơn hai mục đích còn lại ở tất cả (hoặc phần lớn) các quốc gia, thì trường hợp ít gặp này chúng ta phải chia các quốc gia thành hai nhóm khác nhau rồi đề cập bằng hai ý (một nhóm có mục đích này cao nhất và một nhóm có mục đích khác cao nhất).
Dựa vào hướng dẫn trên bây giờ hãy viết phần giới thiệu và tổng quan cho bài tập này.
The pie charts make a comparison of water consumption for domestic,
agricultural and industrial purposes in six different countries.
Overall, far more water is consumed by agriculture than by households or
by industry in all countries except Bahrain and Kuwait. In addition, the
proportion of water used for industry remain the smallest everywhere.
Dựa vào những kiến thức của cả Part Two bây giờ hãy viết phần giới thiệu và tổng quan cho bài tập dưới đây.
Exercise E
The table below gives information about the number of moviegoers (in millions) by country.
Romance | Comedy | Action | Horror | |
---|---|---|---|---|
Japan | 5.5 | 5 | 8.1 | 3.2 |
India | 8.5 | 7.5 | 9 | 3.5 |
New Zealand | 5.5 | 4.9 | 8.2 | 5.7 |
Ireland | 4.8 | 6.5 | 8.6 | 7.4 |
The table compares the numbers of people watching four different genres of films at the movie theatre in Japan, India, New Zealand and Ireland. In general, action movies are more popular with people of all nationalities than the other three types. Additionally, with the exception of horror films, India has the highest numbers of viewers for all categories.
Example A
Hãy quan sát ví dụ sau:
You should spend about 20 minutes on this task.
The graph below shows the number of the population aged 65 or more in four different countries from 1975 to 2015. Summarise the information by selecting and reporting the main features, and make comparisons where relevant.
Write at least 150 words.
Như đã đề cập ở các phần trước, bởi vì mức độ đơn giản của chúng nên các dạng biểu đồ đơn rất hiếm khi xuất hiện trong bài Task One, vì vậy chúng ta thường sẽ gặp các biểu đồ/bảng số liệu có từ ít nhất hai đối tượng trở nên, thông thường là ba hoặc nhiều hơn. Như trong ví dụ trên chúng ta thấy có tới bốn đối tượng là Country A, B, C, và D.
Cách đơn giản nhất để chúng ta tổ chức các đoạn thân bài của mình đó là dựa vào các đối tượng của biểu đồ. Chúng ta sẽ dùng một đoạn thân bài của mình mô tả về một hoặc một số đối tượng nào đó trong toàn bộ thời gian được cho.
Ngoài ra chúng ta cần lưu ý là một bài Task One lý tưởng sẽ thường chỉ cần hai đoạn thân bài. Trừ trường hợp có quá nhiều đối tượng thì chúng ta có thể dùng tới ba đoạn để cho bài viết của mình trông rõ ràng hơn.
Việc quyết định nhóm các đối tượng nào vào chung một đoạn thân bài cũng rất quan trọng (việc nhóm các đối tượng sẽ cần thiết khi biểu đồ của chúng ta có từ ba đối tượng trở nên).
Ví dụ như chúng ta có thể ưu tiên nhóm những đối tượng sau vào một đoạn:
Nếu như chúng ta nhóm hai đối tượng tương đồng (thường là về khuynh hướng hoặc độ lớn) vào với nhau thì chúng ta sẽ có cơ hội để so sánh sự tương đồng giữa chúng và có thể mô tả ngắn gọn đồng thời cả hai đối tượng cùng một lúc.
Nếu như nhóm hai đối tượng tương phản với nhau vào một đoạn (thường là về khuynh hướng hoặc độ lớn) thì chúng ta sẽ có nhiều cơ hội so sánh sự khác biệt giữa chúng.
Mặc dù vậy rất nhiều trường hợp chúng ta cũng sẽ phải nhóm hai đối tượng bất kỳ nào đó vào chung một đoạn, công việc của chúng ta chỉ cần miêu tả riêng rẽ từng đối tượng và thực hiện việc so sánh khi nào có thể.
Một điều cần đặc biệt lưu ý là chúng ta thường sẽ gặp các biểu đồ có khoảng từ ba đến năm đối tượng, nhưng có một số trường hợp biểu đồ/bảng số liệu có thể có rất nhiều đối tượng (có thể là 9,10 hoặc nhiều hơn). Trong trường hợp này bắt buộc chúng ta sẽ phải tìm các đối tượng có các đặc điểm “tương đồng” để nhóm chúng lại với nhau, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể tổ chức bài viết của mình một cách ngắn gọn.
Xét ví dụ trên chúng ta có thể thấy Country B và D có khuynh hướng khá tương đồng nhau nên chúng ta có thể nhóm chúng vào một đoạn. Đoạn còn lại sẽ dành cho hai đối tượng bất kỳ là Country A và C.
Hãy quan sát một phần thân bài mẫu cho Example A:
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8
million, which was the highest of the four countries. Although reaching
a peak of 9 million in 1980, it decreased quickly over the next 25 years
to a low of exactly 3 million. The figures for country B followed a
similar pattern, rising to their highest point at about 6.5 million in
1980, followed by a sharp decline to slightly over 2 million in
2015.
By contrast, the numbers of people aged 65 and over in country A and C
started much lower at a similar level of around 1.5 million. However,
while the latter experienced a steady increase for the following 40
years, ending at a high of just under 8 million, higher than the other
three countries. In the first 25 years, the older population in country
A showed an erratic pattern, fluctuating around 1.25 million before
remaining stable at 1 million for the rest of this period.
Phần thân bài của chúng ta cho ví dụ này được chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dùng để miêu tả hai đối tượng là country D và B, với country D được miêu tả trước và country B được miêu tả sau. Chúng ta thấy country B được mô tả khá ngắn, bởi vì nó có đặc điểm khá giống với country D.
Chính vì đã chọn hai đối tượng có khuynh hướng tương đồng với nhau vào đoạn thứ nhất nên đoạn thứ hai chúng ta có thể dành cho country A và C. Và hai đối tượng này cũng có các điểm tương đồng và tương phản với nhau nên có thể được mô tả xen kẽ.
Lưu ý là đoạn thân bài này được dùng để hướng dẫn xuyên suốt cho toàn bộ Part One nên nó gần như bao gồm tất cả các đặc điểm mà một phần thân bài có thể có, vì vậy số lượng từ có thể vượt khá nhiều so với yêu cầu của đề bài. Tuy nhiên khi đã hoàn toàn hiểu nội dung của phần này thì các bạn có thể dễ dàng điều chỉnh số lượng từ trong bài viết của mình ngắn đi hoặc dài hơn.
Sau khi đã nhóm được các đối tượng vào các đoạn thân bài thì bây giờ chúng ta cần đi vào miêu tả chi tiết các đối tượng. Chúng ta có thể miêu tả lần lượt từng hoặc nhiều đối tượng cùng một lúc.
Đầu tiên chúng ta hãy xem lại yêu cầu của bất cứ một bài Task One nào:
Summarise the information by selecting and reporting the main features, and make comparisons where relevant
Khoan hãy bàn đến yêu cầu “make comparisons where relevant”, yêu cầu đầu tiên của đề bài là chúng ta phải chọn ra các đặc điểm chính (main features) trong biểu đồ để miêu tả. Một bài viết liệt kê ra rất nhiều thông tin nhưng phần lớn trong số đó không phải là các thông tin quan trọng thì chắc chắn sẽ không thể nhận được điểm số cao. Chúng ta cần luôn nhớ tiêu chí Task Achievement (trả lời được các yêu cầu của đề bài) luôn chiếm 1/4 tổng số điểm mà chúng ta nhận được của bài Task One.
Quay lại ví dụ trên thì các bạn thấy rằng các đối tượng Country A, B, C và D luôn thể hiện sự thay đổi qua các mốc thời gian, và khi miêu tả chúng sẽ có rất nhiều số liệu để chúng ta đề cập, do đó các bạn thường sẽ khó khăn trong việc xác định số liệu nào thể hiện những thông tin chính của một đối tượng. Một lời khuyên cho các bạn đó là trước khi viết bài hãy đánh dấu lại những điểm này để có thể bao gồm đầy đủ chúng vào bài mô tả của mình.
Ngoài ra không những các bạn phải biết đâu là điểm quan trọng để đề cập mà phải học luôn cách diễn đạt chúng. Trong mỗi mục ở dưới đây đều đưa ra nhiều cách khác nhau để miêu tả một điểm quan trọng nào đó. Hãy luyện tập mô tả chúng càng nhiều càng tốt.
Thông thường đối với dạng biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì người ta sẽ quan tâm đến qua cả quá trình thì dữ liệu thay đổi như thế nào. Chính vì vậy chúng ta có thể đề cập đến hai điểm này khi mô tả một đối tượng nào đó.
Có nhiều cách khác nhau để mô tả điểm bắt đầu của một đối tượng, mỗi cách ở dưới đây miêu tả lần lượt các điểm bắt đầu của cả bốn đối tượng Country A, B, C và D. Các từ quan trọng để miêu tả các điểm này được in đậm, và bản thân chúng sẽ được gạch dưới:
Tương tự cũng có nhiều cách để chúng ta đề cập đến các điểm kết thúc:
Khi miêu tả bất cứ một đối tượng nào đó thì chúng ta luôn cần chú ý đến hai điểm cao nhất và thấp nhất của nó, đây sẽ là hai thông tin chúng ta sẽ thường xuyên cần đề cập tới.
Tương tự chúng ta cũng có nhiều cách để mô tả chúng, dưới đây là một số cách chúng ta có thể sử dụng:
Nếu như giá trị của một đối tượng duy trì tại một điểm trong một thời gian dài thì chúng ta có thể đề cập tới điểm này.
Khi giá trị của một đối tượng dao động liên tục quanh một điểm trong một giai đoạn nào đó thì chúng ta cũng có thể đề cập đến nó.
Như vậy là chúng ta đã nắm được các điểm quan trọng và hay xuất hiện nhất khi miêu tả một đối tượng nào đó, tuy nhiên trong một số trường hợp chúng ta cũng có thể đề cập thêm các điểm khác như dưới đây.
Giả sử nếu dân số già ở country X nào đó lúc đầu (1975) tăng nhưng sau đó giảm và quay về mức ban đầu chúng ta cũng có thể đề cập đến điểm này.
The number of older people in country C rose to just over 4 million in 2000, which was matched by that in country D.
The numbers of people aged 65 and over in country A and C started at a similar level of around 1.5 million.
Trên gần như đã bao gồm tất cả các điểm chúng ta cần để miêu tả bất kỳ một đối tượng nào trong một biểu đồ/bảng số liệu có dữ liệu thay đổi theo thời gian.
Khi miêu tả các điểm này thì điều chúng ta cần lưu ý là đừng quên việc thêm các số liệu để hỗ trợ đầy đủ nhất cho thông tin mình đưa ra, đây cũng là yêu cầu trong tiêu chí đánh giá điểm của bài Task One.
Ngoài ra như các bạn cũng thấy không phải lúc nào một đối tượng cũng sẽ bao gồm tất cả những đặc điểm trên, thông thường một đối tượng nào đó chỉ thể hiện một vài trong số những điểm kể trên, hoặc trong trường hợp chúng có chứa rất nhiều điểm nêu trên thì chúng ta cũng chỉ nên chọn ra một vài điểm quan trọng hơn để đề cập tới. Chúng ta cũng cần lưu ý là các điểm được đề cập ở trên đôi khi trùng với nhau (ví dụ như điểm bắt đầu là điểm thấp nhất hoặc điểm kết thúc là điểm cao nhất…).
Bây giờ hãy quan sát lại toàn bộ một phần body của Example A với các “key points” đã được gạch chân, và các cách thường dùng để đề cập đến chúng được in đậm.
At the beginning, the number of elderly people in
country D stood at 8 million, which was
the highest of the four countries. Although reaching a
peak of 9 million in 1980, it decreased
quickly over the next 25 years to a low of
exactly 3 million. The figures for country B followed a similar
pattern, rising to their highest point at about 6.5
million in 1980, followed by a sharp decline to
slightly over 2 million in 2015.
By contrast, the numbers of people aged 65 and over in country A and C
started much lower at a similar level of around 1.5
million. However, while the latter experienced a steady
increase for the following 40 years, ending at a high
of just under 8 million, higher than the other three
countries. In the first 25 years, the older population in country A
showed an erratic pattern, fluctuating around 1.25
million before remaining stable at 1 million
for the rest of this period.
Exercise A
At the start, Costa Rica exported just over 10 million kilograms of
coffee, which was the highest figure of the three countries. However,
then, coffee exports dropped quickly to a low of slightly over 5 million
kilograms in 2000, although, from then onwards, they showed a dramatic
increase to finish at the highest point/a peak of around 17 million,
just below Brazil.
In 1990, coffee exports from Brazil stood at approximately 7 million
kilograms, rising steadily over the 25-year period to reach the highest
point/a peak of exactly 20 million in 2015. By contrast, the figures for
Colombia began much lower at just around 3 million kilograms. They
overtook Costa Rica in 2000, with coffee exports reaching 8 million, but
there was then a sharp decrease to a low of only 1.5 million in 2005,
although they climbed rapidly over the following 10 years to finish at
precisely 10 million kilograms in 2015.
Sau khi chúng ta đã xác định được các đối tượng để đưa vào các đoạn thân bài và chọn được các “key points” cho từng đối tượng thì bây giờ các bạn có thể bắt đầu viết, tuy nhiên trước tiên chúng ta cần nắm được các cách để miêu tả những khuynh hướng thay đổi theo thời gian của các đối tượng.
Hay nói cách khác sau khi xác định được các điểm quan trọng của một đối tượng chúng ta cần biết cách nối chúng lại với nhau dùng ngôn ngữ của sự thay đổi.
Có 4 cấu trúc sau đây thường được dùng để miêu tả khuynh hướng tăng/giảm:
\([Y]\) + verb + adverb from \(L_1\) to \(L_2\) from \(T_1\) to \(T_2\)
The elderly population in country C rose gradually from around 1.5 million to just over 4 million from 1975 to 2005.
\([Y]\) + showed/experienced + a + adjective + noun from \(L_1\) to \(L_2\) from \(T_1\) to \(T_2\)
The figure for country B experienced a sharp decrease from 6.5 million to exactly 3.5 million from 1980 to 1985.
Lưu ý thì được dùng làm mẫu trong các cấu trúc là thì quá khứ đơn giống với thì cần dùng trong Example A.
There + was + a + adjective + noun from \(L_1\) to \(L_2\) + in + \([Y]\) from \(T_1\) to \(T_2\)
There was a gradual rise from around 1.5 million to just over 4 million in the number of elderly people in country C over the first 30 years.
\(T_1\) to \(T_2\) + saw/witnessed + a + adjective + noun + from \(L_1\) to \(L_2\) + in + \([Y]\)
1980 to 2005 witnessed a considerable fall from 9 million to only 3 million in the number of older people in country D.
Ở phần Part One này, phần lớn nội dung trong bài viết của chúng ta là ngôn ngữ của sự thay đối, vì vậy sử dụng linh hoạt các cấu trúc trên khi viết sẽ cho thấy khả năng sử dụng đa dạng ngữ pháp.
Trong bốn cấu trúc ở phần 1 thì các “verbs” (trong cấu trúc thứ nhất) và “nouns” (trong ba cấu trúc 2,3,4) chính là các động từ và danh từ tương đương với nhau để miêu tả sự thay đổi tăng hoặc giảm. Bảng dưới đây tổng hợp các động từ và danh từ thường được sử dụng nhiều nhất:
Verb | Noun |
---|---|
climb | climb |
increase | increase |
grow | growth |
rise | rise |
Verb | Noun |
---|---|
decline | decline |
decrease | decrease |
drop | drop |
fall | fall |
Ngoài ra chúng ta cũng thấy các “adjectives” (trong ba cấu trúc 2,3,4) và “adverbs” (trong cấu trúc thứ nhất) là các tính từ và trạng từ tương đương với nhau, thông thường chúng ta có thể sử dụng thêm chúng để bổ ngữ cho các danh từ và động từ chỉ sự thay đối theo thời gian ở trên. Các từ này có thể đưa thêm thông tin về “mức độ” hoặc “tốc độ” tăng giảm. Bảng dưới đây cũng tổng hợp các tính và trạng từ được dùng nhiều nhất:
Adjective | Adverb |
---|---|
dramatic | dramatically |
sharp | sharply |
steep | steeply |
significant | significantly |
considerable | considerably |
substantial | substantially |
twofold | twofold |
threefold | threefold |
moderate | moderately |
somewhat | |
marginal | marginally |
slight | slightly |
Adjective | Adverb |
---|---|
rapid | rapidly |
quick | quickly |
steady | steadily |
gradual | gradually |
slow | slowly |
sudden | suddenly |
Trong bảng trên, các tính từ dramactic/sharp/steep được dùng để chỉ sự thay đổi rất mạnh, trong khi significant/considerable/substantial dùng để miêu tả sự tăng/giảm đáng kể. Các từ twofold/threefold/fourfold… được dùng để chỉ sự tăng/giảm bao nhiêu lần. Khi miêu tả sự tăng/giảm vừa phải chúng ta dùng tính từ moderate hoăc trạng từ somewhat, còn khi nói về sự thay đổi nhỏ chúng ta dùng marginal/slight.
Hai tính từ rapid/quick miêu tả sự thay đổi nhanh, trái ngược với gradual/slow dùng để miêu tả sự thay đổi dần dần hay chậm. Steady chỉ sự tăng/giảm đều đặn còn sudden nói về sự thay đổi đột ngột.
Các trạng từ ở cột bên phải cũng mang nghĩa tương đương như các tính từ ở trên khi được dùng với các động từ.
Exercise B
Dựa vào biểu đồ này hãy điền những từ phù hợp vào các chỗ trống trong đoạn dưới đây.
dramatic | somewhat | remaining | steady | significant | gradually |
At the start, sales of video games stood at around $20 million. After that, they decreased ____(1)____ over the following three years to the lowest point of just over $10 million. However, there was then a ____(2)____ increase to a high of exactly $80 million in 2004, after which the figure experienced a ____(3)____ drop to slightly under $40 million by 2005. After a three-year period of small fluctuations, sales continued to fell ____(4)____ to around $30 million in 2009, ____(5)____ there for the following year. The end of this period saw a ____(6)____ climb, with the sales of video games finishing at around $55 million.
Exercise C
Dựa vào bốn cấu trúc ở phần lý thuyết hãy viết lại những câu sau sử dụng ba cấu trúc khác so với câu được cho.
Example:
The unemployment rate climbed quickly from 2% to slightly less than
5% in Australian rural areas from 2000 to 2010.
\(\rightarrow\) The unemployment rate
showed a quick climb from 2% to slightly less than 5% in Australian
rural areas from 2000 to 2010.
\(\rightarrow\) There was a quick climb
from 2% to slightly less than 5% in the unemployment rate in Australian
rural areas from 2000 to 2010.
\(\rightarrow\) 2000 to 2010 saw a
quick climb from 2% to slightly less than 5% in the unemployment rate in
Australian rural areas.
\(\rightarrow\) The amount of beef
consumed per person experienced a steady fall from just under 30 to
about 20 pounds from 1980 to 2000.
\(\rightarrow\) There was a steady fall
from just under 30 to about 20 pounds in the amount of beef consumed per
person from 1980 to 2000.
\(\rightarrow\) 1980 to 2000 witnessed
a steady fall from just under 30 to about 20 pounds in the amount of
beef consumed per person.
\(\rightarrow\) Waste production
from company A showed a dramatic climb from 3 to 8 tonnes at the end of
the period.
\(\rightarrow\) There was a dramatic
climb from 3 to 8 tonnes in waste production from company A at the end
of the period.
\(\rightarrow\) The end of the period
saw a dramatic climb from 3 to 8 tonnes in waste production from company
A.
\(\rightarrow\) Staff numbers showed
a gradual decline from 40 to just below 30 million over the first 10
years.
\(\rightarrow\) There was a gradual
decline from 40 to just below 30 million in staff numbers over the first
10 years.
\(\rightarrow\) The first 10 years saw
a gradual decline from 40 to just below 30 million in staff numbers.
\(\rightarrow\) The production of
iron in New South Wales experienced a marginal increase from 2.6 to only
3 million tonnes over the 35-year period.
\(\rightarrow\) There was a marginal
increase from 2.6 to only 3 million tonnes in the production of iron in
New South Wales over the 35-year period.
\(\rightarrow\) The 35-year period
witnessed a marginal increase from 2.6 to only 3 million tonnes in the
production of iron in New South Wales.
\(\rightarrow\) Average monthly
temperatures experienced a dramatic rise from about 150C to a peak of
300C between June and Sep.
\(\rightarrow\) There was a dramatic
rise from about 150C to a peak of 300C in average monthly temperatures
between June and Sep.
\(\rightarrow\) Jun to Sep witnessed a
dramatic rise from about 150C to a peak of 300C in average monthly
temperatures.
\(\rightarrow\) Coffee exports from
Colombia showed a significant drop from 15 to around 7.5 million
kilograms over the following four years.
\(\rightarrow\) There was a significant
drop from 15 to around 7.5 million kilograms in coffee exports from
Colombia over the following four years.
\(\rightarrow\) The following four
years saw a significant drop from 15 to around 7.5 million kilograms in
coffee exports from Colombia.
\(\rightarrow\) The proportion of
spending on teachers’ salaries experienced a steady decrease from a peak
of 30% to only 10% over the 20-year period.
\(\rightarrow\) There was a steady
decrease from a peak of 30% to only 10% in the proportion of spending on
teachers’ salaries over the 20-year period.
\(\rightarrow\) The 20-year period
witnessed a steady decrease from a peak of 30% to only 10% in the
proportion of spending on teachers’ salaries.
Trong tiếng Anh nói chung và IELTS Writing Task One nói riêng thì việc biết cách sử dụng giới từ là luôn là điều cực kỳ quan trọng và thường gây rất nhiều khó khăn cho người học. Dưới đây là một số hướng dẫn sử dụng các giới từ thường gặp khi miêu tả biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian.
Trước tiên chúng ta hãy quan sát lại một trong bốn cấu trúc miêu tả sự thay đổi:
\([Y]\) + verb + adverb from \(L_1\) to \(L_2\) from \(T_1\) to \(T_2\)
The elderly population in country C rose gradually from around 1.5 million to just over 4 million from 1975 to 2005.
Cấu trúc trên thể hiện rõ từ giai đoạn 1975 đến 2005 dân số già ở Country C tăng từ 1.5 đến 4 million. Tuy nhiên trong thực tế bài viết của chúng ta thường chưa miêu tả sự thay đổi ngay từ câu đầu tiên, mà phải đến câu thứ hai như dưới đây:
The number of people aged 65 and over in country C started at around 1.5 million in 1975. However, it rose steadily over the next 30 years to just over 4 million.
Chúng ta có thể thấy bởi vì điểm \(L_1\) (1.5 million) đã được đề cập đến trước đó nên khi miêu tả sự thay đổi ở câu thứ hai chúng ta chỉ giữ lại phần “to \(L_2\)” (bình thường là from \(L_1\) to \(L_2\)).
Tương tự thì khoảng thời gian “from 1975 to 2005” cũng được thay bằng “over the next 30 years”.
Chú ý ngoài việc sử dụng cấu trúc “from \(L_1\) to \(L_2\) from \(T_1\) to \(T_2\)” thì một cách khác cũng có thể được sử dụng đó là “from \(L_1\) in \(T_1\) to \(L_2\) in \(T_2\)” ( với \(T_1\),\(T_2\) phải là các mốc thời gian dùng với giới từ “in”)
The elderly population in country C rose gradually from around 1.5 million in 1975 to just over 4 million in 2005.
Trong trường hợp chúng ta không muốn đề cập đến các “điểm” mà thay vào đó là một “lượng tăng/giảm” (hoặc trường hợp chúng ta muốn đề cập đến cả hai) thì chúng ta sử dụng Trong trường hợp chúng ta không muốn đề cập đến các “điểm” mà thay vào đó là một “lượng tăng/giảm” (hoặc trường hợp chúng ta muốn đề cập đến cả hai) thì chúng ta sử dụng by+figure sau các động từ chỉ sự thay đổi và dùng of+ figure sau các danh từ chỉ sự thay đổi. For example:
Tương tự như nhiều giới từ khác, “at” được sử dụng rất nhiều trong Task One, chúng thường đứng sau các động từ Tương tự như nhiều giới từ khác, “at” được sử dụng rất nhiều trong Task One, chúng thường đứng sau các động từ stand/start/begin/remain/peak/finish/end.
Tables of figures và pie charts luôn thể hiện những số liệu chính xác, tuy nhiên khi xác định các điểm trên line graphs và bar charts thì chúng ta chỉ có được các giá trị gần đúng, vì vậy chúng ta thường cần sử dụng thêm các từ/cụm từ để mô tả gần chính xác các điểm này.
Đây là một số cụm thông dụng: Đây là một số cụm thông dụng: just over, just under, slightly over, slightly under, a little less than, a little more than, around, about, approximately, almost, nearly, roughly.
Nếu số liệu là chính xác thì chúng ta cũng có thể thêm các trạng từ: Nếu số liệu là chính xác thì chúng ta cũng có thể thêm các trạng từ: exactly, precisely phía trước chúng.
Exercise D
Điền các giới từ thích hợp vào các chỗ trống.
Answer:
Khi miêu tả một đối tượng nào đó trong dạng này thì chúng ta sẽ thường xuyên phải sử dụng các từ/cụm từ nối để duy trì sự liên tục của dữ liệu theo thứ tự thời gian. Các từ/cụm từ nối này có nhiều loại và có thể đứng ở nhiều vị trí khác nhau, ta gọi chung chúng là “time connectors”.
Chúng ta có thể dùng các cấu trúc dưới đây để mô tả những thông tin lúc ban đầu:
At the start/beginning, ____
At the beginning, the number of elderly people in country A stood at
around 1.5 million.
In the first ____ ,
In the first five years, the figure for country B increased from a little under 5 million to about 6.5 million.
Thông thường chúng ta sẽ phải mô tả rất nhiều thông tin xảy ra ở giữa của khung thời gian, hãy sử dụng luân phiên các từ nối dưới đây trong bài viết của mình:
____ and ____
In the first year, the figure stood at 8 million and rose to a peak of 9 million in 1980. (country D)
In the next/following ____ ,
In the next 25 years, it decreased steadily to a low of exactly 2 million. (country B)
Next, ____
Then, ____
Following this/that, ____
After this/that, ____
Next, it decreased steadily for 25 years to a low of exactly 2 million.
(country B)
After that, it decreased steadily for 25 years to a low of exactly 2
million in 2005. (country B)
____ , after which ____
In the first five years, the figure for country B increased from a little under 5 million to about 6.5 million, after which it decreased steadily to a low of exactly 2 million in 2005.
After + V_{ing} / noun phrase / clause, ____
After reaching a peak of about 6.5 million in 1980, the figure for country B declined steadily over the next 25 years to the lowest point of exactly 2 million.
____ before + V_{ing} / noun phrase / clause
____ , which is followed by + noun phrase
The figure for country B reached a peak of about 6.5 million in 1980 before a steady decline over the next 25 years to its lowest point of exactly 2 million.
____ until (+ time)
The figure for country A fluctuated around 1.25 million until 2000, after which it remained at about 1 million.
Một số cách dưới đây có thể dùng để miêu tả các sự việc diễn ra ở phần cuối của khung thời gian:
In the final/last ____ ,
In the last 10 years, the figure for country C grew rapidly to finish at almost 8 million.
Ultimately/eventually,
It eventually reached a peak of just under 8 million in 2015. (country C)
Lưu ý đôi khi chúng ta không muốn chia nhỏ khung thời gian mà muốn miêu tả đối tượng trong toàn bộ giai đoạn (trường hợp có quá nhiều đối tượng hoặc trường hợp một đối tượng nào đó không có thay đổi gì nổi bật để phải chia nhỏ ra) thì chúng ta có thể dùng các cụm:
From ___ to ___
Between ___ and ___
Over the whole period
Over the X-year period
The figure for country C rose steadily over the 40-year period from
around 1.5 million to almost 8 million.
The older population in country A remained below 2 million between 1975
and 2015.
Hãy quan sát lại phần thân bài cho biểu đồ dân số già ở bốn quốc gia A, B, C, D chúng ta đang xét và lưu ý các từ/cụm từ nối theo thứ tự thời gian được sử dụng.
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8
million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of
9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years
to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in
the last year. The figures for country B followed a similar pattern,
rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by
a sharp decline to only 2 million in 2015.
By contrast, the numbers of people aged 65 and over in country A and C
started much lower, at a similar level of around 1.5 million. However,
while the latter experienced a steady increase for the following 40
years, ending at a high of just under 8 million, higher than the other
three countries; in the first 25 years, the older population in country
A showed an erratic pattern, fluctuating around 1.25 million before
remaining stable at 1 million for the rest of this period.
Exercise E
Quan sát biểu đồ dưới đây, hãy điền các từ nối theo thứ tự thời gian mà các bạn cảm thấy phù hợp vào chỗ trống. (Đề thi ngày 25/12/2018)
At the start , 800 grams of wholegrain bread cost €0.8 in this European country, higher than the other three types. ____(2)____ , this figure showed a dramatic rise to a peak of €1.8 in 2002 ____(3)____ falling steadily ____(4)____ three years to finish at the initial figure. Rye bread remained the cheapest of the four categories over ____(5)____ , with the price per 800 grams ranging only from €0.5 to €0.7. The price of 800 grams of white and brown bread stood at the same level of €0.6 in 2001, with the former increasing steadily ____(6)____ , ending at its highest point of around €1.3. The figure for brown bread more than doubled ____(7)____ two years to about €1.5, reaching a high of €1.6 in the following year. ____(8)____ a marginal decline, the price rose again to the 2003 figure at the end of this period.
Tiêu đề của phần này luôn là một trong những yêu cầu của đề bài Task One:
“Summarise the information by selecting and reporting the main features, and make make comparisons where relevant”.
Thông thường chúng ta có thể chia các phép so sánh trong bài viết của mình ra làm hai loại, và vẫn xét tiếp Example A:
Như chúng ta đã biết một bài Task One thường có nhiều đối tượng nên chúng ta có thể so sánh các đối tượng với nhau. Tuy nhiên trước hết chúng ta sẽ cần “so sánh các giá trị hoặc khuynh hướng của một đối tượng ở những thời điểm khác nhau với nhau”.
Khi chọn các “key points” cho một đối tượng ở phần 2, chúng ta đã biết cách xác định các điểm cao nhất, thấp nhất (highs and lows) của một đối tượng, hoặc xác định các điểm trùng với điểm đã đi qua. Khi đề cập đến các điểm này là chúng ta đang thực hiện việc so sánh giá trị của một đối tượng ở các thời điểm khác nhau và đáp ứng đúng yêu cầu của đề bài.
Ngoài ra chúng ta cũng có thể so sánh các khuynh hướng của một đối tượng ở hai thời điểm khác nhau (thường là sự tương phản) bằng cách dùng các “linking words” như however, but, although.
Hãy quan sát lại đoạn thân bài đầu tiên của Example A, chúng ta sẽ thấy những từ/cụm từ được gạch chân dưới đây thể hiện những sự so sánh kể trên cho hai đối tượng country D và country B.
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8 million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of 9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in the last year. The figures for country B followed a similar pattern, rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by a sharp decline to slightly over 2 million in 2015.
Khi nói về việc thực hiện các phép so sánh trong một biểu đồ thì đây thường sẽ là phần đầu tiên chúng ta nghĩ đến, và thực tế cũng sẽ có nhiều cơ hội để so sánh giữa các đối tượng với nhau.
Nếu chúng ta nhận thấy hai đối tượng có “sự khác biệt hoặc tương đồng” nào đó về “độ lớn hoặc khuynh hướng” thì khi bắt đầu mô tả đối tượng thứ hai chúng ta có thể sử dụng các cụm như: Nếu chúng ta nhận thấy hai đối tượng có “sự khác biệt hoặc tương đồng” nào đó về “độ lớn hoặc khuynh hướng” thì khi bắt đầu mô tả đối tượng thứ hai chúng ta có thể sử dụng các cụm như: by contrast, in contrast, similarly để làm nổi bật sự khác biệt hoặc tương đồng này.
Nếu như hai đường có hình dạng gần như tương đồng hay tương phản chúng ta cũng có thể dùng các câu như:
X followed/showed a similar pattern/trend. (tương đồng)
X followed/showed an opposite pattern/trend. (tương phản)
Ở trong Example A vì Country B có khuynh hướng tương tự như country D nên bài viết của chúng ta có thể đề cập về sự tương đồng giữa chúng:
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8 million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of 9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in the last year. The figures for country B followed a similar pattern, rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by a sharp decline to slightly over 2 million in 2015.
Hoặc đơn giản chúng ta cũng có thể sử dụng:
Similarly, the figures for country B rose to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by a sharp decline to slightly over 2 million in 2015.
Như ở phần xác định các “key points” có đề cập về “điểm vượt qua đối tượng khác” hay “điểm có giá trị trùng với đối tượng khác” ở một thời điểm nào đó. Khi bao gồm các điểm này vào bài viết của mình thì chúng ta đang so sánh giá trị của các đối tượng khác nhau ở cùng một thời điểm nào đó.
Ngoài ra nếu nhận thấy ở một thời điểm đặc biệt nào đó (ví dụ như ở điểm bắt đầu hoặc điểm kết thúc) đối tượng chúng ta đang xét mang giá trị cao nhất, thấp nhất hoặc đôi khi là cao hơn một (hoặc nhiều) đối tượng khác thì chúng ta cũng có thể thực hiện các phép so sánh.
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8 million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of 9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in the last year. The figures for country B followed a similar pattern, rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by a sharp decline to slightly over 2 million in 2015.
Trong đoạn thân bài này khi đang mô tả country D thì chúng ta thấy số người già ở quốc gia này lúc đầu cao hơn tất cả các quốc gia khác, vì vậy chúng ta có thể viết thêm một ý để so sánh ở đây.
Lưu ý nếu có thể chúng ta nên sử dụng mệnh đề phụ (thường là mệnh đề quan hệ) để không làm đứt mạch mô tả đối tượng chính.
Chúng ta cũng có thể dùng so sánh hơn trong ý so sánh ở trên:
which was the highest of the four countries \(\rightarrow\) which was higher than the other three countries.
Và mệnh đề quan hệ rút gọn cũng có thể được dùng, chỉ để lại phần sau là “the highest of the four countries” hay “higher than the other three countries”.
Lưu ý trong Task One sau mệnh đề quan hệ chúng ta thường luôn dùng dấu “,”.
Dưới đây là một số cấu trúc “so sánh hơn” chúng ta có thể dùng để thực hiện các phép so sánh kiểu này:
The number /The amount of A was much far
significantly/slightly/marginally greater/higher/smaller/lower than
(that of) B
The number /The amount of A was (about) (more than) (over) two times
higher/greater than/twice as high/great as (that of) B
For example:
At the beginning, the profit gained by Yokohama FC stood at around 30
thousand dollars, slightly higher than the others.
The profit figure for Gamba Osaka finished at a high of 50 thousand
dollars, which was far greater than that of Yokohama FC.
The profit figure for FC Tokyo reached 100 thousand dollars at the end
of this period, which was more than twice as high as that of Gamba
Osaka.
Lưu ý ngoài việc đề cập đến số liệu của một đối tượng trước rồi sau đó thực hiện so sánh với các đối tượng khác như những ví dụ ở trên, cách ngược lại cũng rất hay được sử dụng. Có nghĩa là chúng ta sẽ so sánh một đối tượng với các đối tượng khác trước rồi sau đó mới đề cập đến số liệu của nó.
For example:
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8
million, which was the highest of the four countries.
\(\rightarrow\) At the beginning, the
number of elderly people in country D was the highest, at 8 million.
At the beginning, the consumption of beef stood at just under 250 grams
per person per week, which was by far the highest of these foods.
\(\rightarrow\) At the beginning, beef
was the most popular of these foods, with just under 250 grams consumed
per person per week.
Luôn lưu ý việc so sánh chỉ nên là một ý phụ cần phải có và phát sinh trong quá trình chúng ta đang miêu tả một đối tượng nào đó. Phải luôn nắm rõ đâu là đối tượng chính chúng ta đang miêu tả để không làm đứt mạch những ý chính của đoạn văn.
Bây giờ hãy đọc lại toàn bộ phần thân bài mẫu cho Example A, các bạn hãy cố gắng nhận biết được những phần gạch chân thể hiện tất cả các phép so sánh mà chúng ta đã thảo luận từ đầu mục 6 đến hiện tại.
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8
million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of
9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years
to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in
the last year. The figures for country B followed a similar pattern,
rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by
a sharp decline to slightly over 2 million in 2015.
By contrast, the numbers of people aged 65 and over in country A and C
started much lower, at a similar level of around 1.5 million. However,
while the latter experienced a steady increase for the following 40
years, ending at a high of just under 8 million, higher than the other
three countries; in the first 25 years, the older population in country
A showed an erratic pattern, fluctuating around 1.25 million before
remaining stable at 1 million for the rest of this period.
Giống như ở đoạn thân bài thứ hai ở trên, trong nhiều trường hợp chúng ta sẽ cần miêu tả hai đối tượng cùng một lúc (ví dụ như khi có nhiều đối tượng), lúc này các bạn có thể dùng các liên từ như while/whereas để mô tả sự tương phản của hai đối tượng ở trong cùng một thời gian.
Exercise F
Quan sát bảng số liệu sau, hãy chọn những từ/cụm từ phù hợp trong bảng điền vào chỗ trống. (Đề thi ngày 27/06/2018)
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | |
---|---|---|---|---|---|
Nigeria | 205,000 | 201,000 | 190,000 | 210,000 | 213,000 |
Tchad | 0 | 0 | 0 | 8,000 | 50,000 |
Congo | 275,000 | 234,000 | 222,000 | 215,000 | 203,000 |
Somalia | 5,000 | 8,000 | 17,000 | 21,000 | 50,000 |
In 2000, Congo’s oil production stood at 275,000 barrels per day, ____(1)____ than the other countries. ____(2)____ , it then showed a steady decrease to finish at 203,000 barrels in 2004. ____(3)____ , oil output in Somalia followed an upward trend, growing from only 5,000 barrels per day to 50,000 over this time period.
Nigeria produced 205,000 barrels of oil per day at the beginning, 70 barrels ____(4)____ than that of Congo. Following this, the figure dropped to ____(5)____ 190,000 barrels in 2002 before rising again to reach 213,000 barrels at the end of this period, which was ____(6)____ . ____(7)____ , Tchad only started generating oil in the year 2003, with 8,000 barrels of oil produced per day, ____(8)____ production experienced a dramatic rise to 50,000 barrels in 2004, which was ____(9)____ that in Somalia.
Thì hay được sử dụng nhất trong một bài Task One là thì quá khứ đơn (past simple), tuy nhiên trong trường hợp nào chúng ta nên và có thể dùng những thì khác?
Nếu khung thời gian của các biểu đồ này nằm trong quá khứ (ví dụ từ 2005 đến 2010) chúng ta sử dụng thì quá khứ đơn (past simple).
Như đã nói đây có thể coi là trường hợp chúng ta hay gặp nhất, trong hầu hết các ví dụ và bài tập chúng ta đã thảo luận hầu như tất cả đều có khung thời gian nằm trong quá khứ. Lý do đơn giản là vì các số liệu thường được thống kê từ các sự kiện đã xảy ra rồi.
Tuy nhiên trong thực tế nhiều tài liệu đề cập đến việc chúng ta có thể sử dụng thì hiện tại đơn (present simple) để mô tả các biểu đồ thuộc loại này. Mặc dù vậy một lời khuyên là chúng ta nên sử dụng thì quá khứ đơn để có thể thống nhất được cách sử dụng và quen với việc chia các động từ khi dùng thì này.
Nếu đề bài không đề cập đến thời gian cụ thể hoặc chỉ cho khung thời gian của biểu đồ là chung chung (ví dụ như chỉ cho các mốc là các tháng/quý trong một năm nhưng không đề cập là năm nào, hay các mốc là các ngày trong một tuần bất kỳ…) trường hợp này chúng ta sẽ sử dụng thì hiện tại đơn để miêu tả biểu đồ. Lưu ý là trong trường hợp này chúng ta cần quan sát kỹ ở đề bài hay trên biểu đồ để chắc chắn không có mốc thời gian cụ thể nào được đề cập tới.
Cũng giống như phần trước thì trường hợp này một số tài liệu hướng dẫn đôi khi cũng sử dụng thì quá khứ đơn. Lý do đơn giản như đã nói là vì các số liệu thường được thống kê từ các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Mặc dù vậy chúng ta cũng cần thống nhất chỉ nên dùng thì hiện tại đơn cho trường hợp này để tránh dẫn đến sự nhầm lẫn.
For example:
Chúng ta thấy biểu đồ trên chỉ thể hiện lợi nhuận kiếm được trong bốn quý của hai CLB bóng đá trong một năm dương lịch (không nói rõ là năm nào), vì vậy chúng ta sẽ dùng thì hiện tại đơn để mô tả biểu đồ này.
Trong một số biểu đồ, khung thời gian có thể bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai thì việc chia thì sẽ trở nên phức tạp hơn đôi chút. Lúc này chúng ta sẽ chia các thì cần sử dụng theo thứ tự thời gian từ quá khứ đến tương lai. Bây giờ giả sử như trong Example A đề bài có cho thêm các mốc thời gian ở tương lai như biểu đồ phía dưới.
Chúng ta sẽ dùng thì quá khứ đơn bình thường giống như trong trường hợp 1 từ 1975 đến 2015.
From 1975 to 2015, the number of elderly people in country C grew steadily from around 1.5 to just under 8 million.
Nếu thời gian hiện tại là 2019, và bây giờ chúng ta muốn miêu tả sự kiện xảy ra từ quá khứ cho đến điểm hiện tại thì chúng ta cần dùng thì hiện tại hoàn thành.
From 1980 to 2015, the number of elderly people in country B fell steadily from around 6.5 to just over 2 million, but then it has risen suddenly to the 1980 figure at the present time.
Lưu ý ở đây chúng ta đang miêu tả sự thay đổi từ quá khứ đến hiện tại, còn nếu chỉ đề cập đến điểm hiện tại tất nhiên chúng ta chỉ cần dùng thì hiện tại đơn (present simple):
At the present time, 6.5 million people in country B were 65 years old or over.
It is predicted/expected/forecasted/estimated that \([Y]\) will
For example:
The figure for country C shows a consistent growth over the period, and it is expected that the older population will reach 10 million at the end.
It is forecasted that the figure for country D will show a sharp growth in the last six years to just under 8 million by 2025.
\([Y]\) is/are predicted/expected/forecasted/estimated to
For example:
The figure for country C shows a consistent growth over the period, and the older population is predicted to reach 10 million at the end.
The figure for country D is expected to show a sharp growth in the last six years to just under 8 million by 2025.
Lexical Resource và Grammar Range & Accuracy là hai trong bốn tiêu chí tính điểm của một bài Task One, vì vậy ngoài việc sử chính xác chúng ta cần đa dạng trong cách sử dụng từ vựng và các cấu trúc ngữ pháp của mình. Trong các mục trước các bạn đã học được cách dùng những cấu trúc khác nhau để mô tả sự thay đổi, hay sử dụng mệnh đề quan hệ để so sánh giá trị của những đối tượng khác nhau, và các từ/cụm từ đứng trước để thể hiện giá trị gần đúng của một điểm… Tất cả không chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta mô tả thông tin chính xác hơn mà còn hướng đến việc đa dạng sử dụng từ vựng/ngữ pháp trong bài viết của mình.
Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về cách sử dụng dạng -ing trong một cụm phân từ (participial phrases). Các bạn hãy tập sử dụng để làm cho câu của mình dài và hay hơn.
Chúng ta có thể sử dụng các cụm phân từ để nối hai câu (hoặc hai mệnh đề) có cùng một chủ từ lại với nhau, với điều kiện hai câu (hoặc hai mệnh đề này) miêu tả hai ý xảy ra theo thứ tự trước sau:
From 2005 onwards, the figure for country C showed a sharp growth. It
eventually reached a peak of just under 8 million in 2015.
\(\rightarrow\) From 2005 onwards, the
figure for country C showed a sharp growth, eventually reaching a peak
of just under 8 million in 2015.
The older population in country A had fallen to around 1 million by
2000, and remained at that level from then onwards.
\(\rightarrow\) The older population in
country A had fallen to around 1 million by 2000, remaining at that
level from then onwards.
Chúng ta cũng có thể sử dụng các cụm phân từ để nối hai câu (hoặc hai mệnh đề) có cùng một chủ từ khi hai câu (hoặc hai mệnh đề) này miêu tả hai ý có vai trò tương đương nhau:
By contrast, the number of people aged 65 or more in country C showed an
upward trend. It grew steadily from only 1.5 million in 1975 to almost 8
million in 2015.
\(\rightarrow\) By contrast, the number
of people aged 65 or more in country C showed an upward trend, growing
steadily from only 1.5 million in 1975 to almost 8 million in 2015.
The figure for country A remained the lowest over the period and never
rose above 2 million.
\(\rightarrow\) The figure for country
A remained the lowest over the period, never rising above 2 million.
Hoặc khi miêu tả ý sau là một phần của ý trước:
After 1980, the older population in country D decreased steadily, and it
dropped to its lowest point of exactly 3 million in 2005.
\(\rightarrow\) After 1980, the older
population in country D decreased steadily, dropping to its lowest point
of exactly 3 million in 2005.
Trong thực tế để có thể sử dụng được các cụm phân từ này, trước khi viết chúng ta phải dự tính trước đâu sẽ là chủ từ của cả hai câu (hoặc mệnh đề) mà chúng ta sẽ viết. Trong tất cả các ví dụ và bài tập chúng ta đang xét thường thì chủ từ chính là \([Y]\) (yếu tố được đo lường).
Trong trường hợp hai chủ từ không giống nhau, nếu muốn nối hai vế sử dụng dạng -ing chúng ta có thể sử dụng giới từ “with”, for example:
Country A had the lowest number of people aged 65 or more during the
40-year period. Figures never rose above 2 million.
\(\rightarrow\) Country A had the
lowest number of people aged 65 or more during the 40-year period, with
figures never rising above 2 million.
Lưu ý là để có thể nối lại được với nhau thì hai ý này cũng phải có những sự liên quan nhất định (trong trường hợp này là do thuộc về cùng một đối tượng).
Tương tự các mục khác, bây giờ chúng ta cần quan sát lại cách sử dụng các cụm phân từ hiện tại này trong phần thân bài của Example A, với chủ từ của nó cũng được gạch chân:
At the beginning, the number of elderly people in country D stood at 8
million, which was the highest of the four countries, reaching a peak of
9 million in 1980. However, it decreased quickly over the next 25 years
to a low of exactly 3 million before rising again to almost 4 million in
the last year. The figures for country B followed a similar pattern,
rising to their highest point at about 6.5 million in 1980, followed by
a sharp decline to only 2 million in 2015.
By contrast, the numbers of people aged 65 and over in country A and C
started much lower, at a similar level of around 1.5 million. However,
while the latter experienced a steady increase for the following 40
years, ending at a high of just under 8 million, higher than the other
three countries; in the first 25 years, the older population in country
A showed an erratic pattern, fluctuating around 1.25 million before
remaining stable at 1 million for the rest of this period.
Exercise G
Tương tự như những ví dụ ở trên hãy nối những câu hoặc mệnh đề dưới đây lại với nhau bằng cách sử dụng các cụm phân từ hiện tại.
The proportions of elderly people in the USA and Sweden rose gradually over the next five decades and reached just under 15% in 1995.
This continues to rise over the rest of this period. It ultimately peaks at 100 thousand dollars.
The profit had decreased to 50 thousand dollars by the third quarter, and it remained at that level for the next four years.
Iron production in New South Wales started much lower at around 3.5 million tonnes. Over the following two decades, it increased slowly to only 5 million tonnes.
In 2010, social studies was the most popular subject. It accounted for three quarters of enrolments.
The cost of teachers’ salaries also showed an upward trend. It increased from only 10% to 25% by 2005.
The accident rate showed an erratic pattern. It fluctuated around 1.5% for much of this period.
Over the decade, the staff number showed a similar increase. It doubled from 10 to 20 (per 1,000 people).
Figures for precipitation remain above 250mm from June to September and peak at around 330mm in July.
Expenditure on equipment remained the greatest throughout the whole period. It reached 60% of total spending in 1970 and ended at 50% in 1990.
Như vậy cho đến lúc này chúng ta đã nắm bắt được tất cả các bước cũng như các thông tin cần phải viết trong phần thân bài cho dạng biểu đồ đường (line graphs) có dữ liệu thay đổi theo thời gian. Cũng giống như phần giới thiệu và tổng quan thì trong phần thân bài này hai dạng biểu đồ cột (bar charts) và bảng số liệu (tables of figures) chúng ta cũng sẽ xử lý tương tự như dạng biểu đồ đường. Có đôi chút khác biệt là dạng biểu đồ tròn, chúng ta sẽ đề cập đến chúng ở phần tiếp theo.
Trước tiên các bạn cần cố gắng nắm được các nội dung quan trọng trong Part One này, đồng thời nghiên cứu kỹ các ví dụ cũng như các bài tập được đưa ra. So với dạng biểu đồ “không” có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì các bài tập trong dạng này thường xuất hiện với tần suất áp đảo hơn nhiều lần.
Chúng ta hãy điểm lại 8 nội dung quan trọng nhất cần phải nắm được để viết một phần thân bài:
Cũng tương tự như khi viết phần tổng quan thì với đặc thù là thường có ít mốc thời gian hơn và có nhiều đối tượng thay đổi hơn sẽ phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức phần thân bài cho dạng biểu đồ tròn. Chúng ta sẽ tiếp tục xét dạng biểu đồ tròn có hai mốc thời gian thường gặp hơn cả trong bài thi IELTS Writing Task One.
Example B
You should spend about 20 minutes on this task.
Write at least 150 words.
Ở các phần trước chúng ta đã hoàn thành phần introduction và overview cho ví dụ này:
Ngoài ra chúng ta thường đề cập đến những đối tượng chiếm tỷ trọng lớn nhất hay các đối tượng thay đổi nhiều nhất trước, sau đó mới đến các đối tượng khác.
Trong ví dụ trên chúng ta có thể đề cập đến coal và iron vào trong một đoạn trước, vì chúng là hai sản phẩm chiếm tỷ lệ cao nhất đồng thời có khuynh hướng tương phản với nhau. Ngoài ra chúng ta thấy wheat có khuynh hướng giảm giống như iron nên có thể gộp chúng luôn vào đoạn thứ nhất. Đoạn thứ hai có thể dùng cho meat và vehicles, vì chúng đều tăng nhẹ và chiếm tỷ trọng nhỏ. Lưu ý đây chỉ là một cách chia đoạn, các bạn cũng có thể chia theo những cách khác. Mục 2 - Cách chọn các “key points” cho một đối tượng
Vì chỉ có hai mốc thời gian nên có rất nhiều điểm chúng ta sẽ không cần đề cập đến như là điểm dao động, điểm cao nhất thấp nhất của một đối tượng (các điểm như a peak, a high, a low chỉ xuất hiện khi đối tượng thay đổi qua ba mốc thời gian trở nên), điểm thay đổi xu hướng…. Nói tóm lại chúng ta chỉ đề cập đến điểm bắt đầu và kết thúc và kết hợp với việc so sánh với các đối tượng khác trong cùng một năm.
Mục 3 - Ngôn ngữ của sự thay đổi (language of change)
Khi sử dụng các tính từ/trạng từ để bổ ngữ cho các danh từ/động từ chỉ sự thay đổi thì chúng ta sẽ chỉ sử dụng các từ chỉ về mức độ thay đổi, không dùng các từ chỉ tốc độ thay đổi như steady, gradual,….
Mục 5 - Sử dụng các từ nối theo thứ tự thời gian (time connectors)
Như đã đề cập đặc điểm của dạng này là có nhiều đối tượng hơn, và thông tin về một đối tượng thì rất ít, vì vậy chúng ta sẽ cần sử dụng rất ít các từ nối theo thứ tự thời gian. Chúng ta chỉ cần nắm được cách mô tả điểm đầu và điểm cuối, cộng với cách mô tả sự thay đổi của dữ liệu qua cả khoảng thời gian này.
Trong ví dụ trên chúng ta có thể đề cập tới điểm đầu bằng cách dùng: originally, initially, in 2000, at the start… Để đề cập tới điểm cuối chúng ta có thể dùng: in 2005, by 2005, 5 years later, at the end of the period…
Nếu không muốn đề cập đến từng thời điểm riêng biệt thì chúng ta có thể dùng các cụm như from 2000 to 2005, over the 5-year period, over these five years… để miêu tả toàn bộ quá trình. Mặc dù vậy lưu ý là chúng ta nên biết cách để đề cập đến thông tin ở từng thời điểm, vì đôi khi chúng ta cần so sánh số liệu của một đối tượng ở thời điểm đó với các đối tượng khác.
Như vậy bây giờ chúng ta đã nắm được một số điểm khác biệt quan trọng khi miêu tả dạng biểu đồ tròn có số liệu thay đổi qua hai mốc thời gian khác nhau.
Bây giờ hãy quan sát phần thân bài hoàn chỉnh cho ví dụ trên:
The proportion of coal exported was the largest over the 5-year period,
rising from 32% to 42% of the total export volume. By contrast, although
iron exports accounted for the second largest percentage in both years,
they experienced a considerable decrease from 27% to 20% by 2005. The
figure for wheat showed a similar trend, falling from one fifth of total
exports to only 14% five years later.
There was a minimal growth in the proportions of both meat and vehicles
exported over these five years, with the former increasing by only 2%
from 16% to 18%, and the latter remaining the smallest, at only 5% in
2000 and 6% in 2005.
Chúng ta thấy đề bài cho đơn vị là %, vì vậy khi miêu tả sự thay đổi chúng ta lưu ý dùng đúng chủ từ thay đổi là “tỷ trọng”, tránh dùng chủ từ là “sản lượng xuất khẩu” để miêu tả sự thay đổi. Vì khi “sản lượng xuất khẩu” của một đối tượng tăng không có nghĩa là “tỷ trọng” của nó cũng tăng, trong trường hợp sản lượng xuất khẩu của các sản phẩm khác tăng nhiều hơn thì vẫn có thể dẫn đến tỷ trọng của sản phẩm này giảm.
Khi miêu tả số liệu cho dạng biểu đồ tròn chúng ta có thể viết một số tỷ lệ đặc biệt dưới dạng chữ, dưới đây là một số trường hợp đặc biệt thường được sử dụng:
25% | a quarter |
33.33% | a third / one third |
50% | a half / one half / half |
66.66% | two thirds |
75% | three quarters |
Lưu ý rằng trong thực tế ít khi chúng ta có những tỷ lệ chính xác này, mà thường là cao hơn hoặc thấp hơn một chút. Trong trường hợp này chúng ta cần sử dụng thêm các cụm chỉ giá trị gần đúng như almost, just over, a little less than… như đã hướng dẫn ở mục 4.
Hãy quan sát những ví dụ dưới đây để xem cách sử dụng của chúng:
Initially, iron exports constituted just over a quarter of the total.
A decade later, exactly a third of students studied chemistry whereas the percentage selecting mathematics accounted for almost a half of the total number of pupils.
In 2000, expenditure on teachers’ salaries represented approximately three quarters of the school’s budget.
Trong dạng biểu đồ tròn (cũng như trong bất cứ dạng nào khác có dữ liệu thay đổi theo thời gian) chúng ta có thể kết hợp sử dụng thêm các thì hoàn thành để đa dạng cách sử dụng ngữ pháp của mình.
Chúng ta có thể dùng thì “hiện tại hoàn thành” hoặc “quá khứ hoàn thành” để đề cập đến giá trị của điểm tiếp theo, với điều kiện chúng ta phải dùng đồng thời:
For instance:
In 2000, the percentage of coal exported was the highest, at 32%, and it had risen to 42% by 2005.
Originally, the figure for iron stood at 27% of total exports, but it had dropped significantly to only 20% five years later.
At the beginning, the older population in country C stood at around only 1.5 million, but by the end of this period this had increased to almost 8 million.
Như chúng ta đã biết ngoài dạng biểu đồ đường (line graphs) luôn có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì ba dạng còn lại bao gồm biểu đồ cột (bar charts), biểu đồ tròn (pie charts) và bảng số liệu (tables of figures) đều có thể không chứa các mốc thời gian.
Về tỷ lệ xuất hiện thì tham khảo ở phần đầu của eBook chúng ta sẽ thấy chúng có tần suất xuất hiện ít hơn hẳn khi so với dạng có các mốc thời gian.
Mặc dù thường có tỷ lệ xuất hiện thấp hơn nhưng đây vẫn là một trong số hai dạng quan trọng nhất của Task One, khả năng gặp chúng trong bài thi thường vẫn nhiều hơn so với các dạng maps, processes. Ngoài ra không chỉ trong dạng đơn, chúng còn có thể xuất hiện trong dạng kết hợp (xét ở phần tiếp theo).
Nhìn chung khi đã nắm rõ được cách viết dạng có dữ liệu thay đổi theo thời gian thì cũng không quá khó để chúng ta xử lý dạng này.
Bây giờ chúng ta sẽ cùng thảo luận một số điểm quan trọng.
Cũng giống như dạng biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian, thông thường đề bài sẽ cho chúng ta nhiều đối tượng, vì vậy chúng ta cần nhóm chúng lại với nhau để bố cục bài viết gọn gàng hơn.
Dưới đây là một ví dụ mà chúng ta đã xét.
Example A
The graph below gives information about air pollution levels in four countries in 2011.
PPM là chữ viết tắt của parts per million, là đơn vị đo mật độ, trong trường hợp này nó đo mật độ của C02 trong không khí, có nghĩa là nó đo số lượng phân tử C02 trong một triệu phân tử trong không khí. Hay nói cách khác là biểu đồ so sánh lượng C02 thải vào không khí của ba tác nhân trên.
Chúng ta cũng đã hoàn thành phần giới thiệu và tổng quan của ví dụ này:
The bar chart displays the differences in air pollution levels in four
countries in terms of three sources: electricity generation,
transportation and industry, in 2011.
In general, China was the nation with the most contaminated air, while
Australia’s atmosphere remained the least polluted. However, electricity
generation produced the lowest amounts of air pollutants everywhere
apart from the latter country.
Như chúng ta đã biết là trong dạng này có hai loại đối tượng lần lượt là các quốc gia: America, China, Japan, Australia và các tác nhân: electricity production, transport, industry. Đối với dạng biểu đồ cột để trực quan hơn thì chúng ta nên ưu tiên chia đoạn thân bài dựa vào các cụm cột - là dựa vào các quốc gia.
Còn trong trường hợp biểu đồ này được trình bày dưới dạng bảng số liệu thì cả hai loại đối tượng này sẽ được thể hiện như nhau. Vì vậy chọn hướng nào để tổ chức đoạn thân bài sẽ hoàn toàn là quyết định của chúng ta.
Quay lại ví dụ trên thì bây giờ chúng ta đã xác định chia các đoạn thân bài dựa vào bốn cụm cột: America, China, Japan và Australia.
Như đã đề cập trong Part One, chúng ta có thể dựa vào sự tương đồng hoặc tương phản về khuynh hướng hoặc độ lớn để nhóm các đối tượng vào một đoạn thân bài. Nếu tương đồng thì chúng ta có cơ hội để miêu tả đồng thời hoặc ngắn gọn đối tượng thứ hai, nếu khác biệt thì chúng ta có cơ hội sử dụng các cụm thể hiện sự tương phản để so sánh chúng.
Trong phần này cũng tương tự, xét trong ví dụ trên nếu dựa vào sự tương đồng về độ lớn thì chúng ta có thể nhóm America và China vào một đoạn và Japan và Australia vào đoạn còn lại.
Vì dạng này không có các khuynh hướng tăng giảm của số liệu nên một cách khác để nhóm là chúng ta dựa vào thứ tự của các cột thành phần. Trong ví dụ trên Japan và China có thứ tự các cột thành phần giống nhau nên chúng ta có thể nhóm chúng vào một đoạn, đoạn còn lại dành cho America và Japan.
Và đây là sẽ là cách chia trong ví dụ mẫu của chúng ta:
In China, industry was the greatest cause of air pollution, producing
exactly 80 ppm, relatively higher than figures for transport, at just
under 70 ppm, and electricity production, at almost 60 ppm. Japan’s air
pollution levels followed a similar trend. While industry and
transportation there discharged 41 and 30 ppm respectively, electricity
generation produced only 10 ppm, which was the lowest figure
overall.
In America, transport was the primary polluter, producing approximately
55 ppm, followed by industry (a little under 40 ppm) and electricity
generation (30 ppm). By contrast, Australia generated very low amounts
of noxious emissions, with all three categories being slightly below 20
ppm.
Sau khi nhóm được các đối tượng vào với nhau thì tương tự chúng ta cũng cần chọn ra các “key points” để miêu tả các đối tượng này.
Gần như chúng ta sẽ không cần sử dụng hầu hết các “key points” trong dạng có dữ liệu thay đổi theo thời gian, bởi vì sẽ không có các điểm: điểm bắt đầu, kết thúc, dao động hay không thay đổi… Do đó tất cả các thông tin được đề cập sẽ chỉ là về độ lớn của các đối tượng.
Nếu miêu tả một đối tượng không có quá nhiều số liệu như trong biểu đồ của ví dụ trên (mỗi cột chỉ có ba cột thành phần) thì chúng ta có thể bao gồm hầu hết các số liệu của một đối tượng và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng.
Cụ thể là trong phần thân bài mẫu ở trên các bạn có thể thấy khi miêu tả một quốc gia nào đó chúng ta đều đề cập đến số liệu của cả ba tác nhân, và các phép so sánh thường tập trung vào các điểm cao nhất, thấp nhất.
Chính vì vậy nên khi miêu tả một biểu đồ nào khác có quá nhiều số liệu thì chúng ta cũng tập trung nhiều vào các điểm quan trọng này, đồng thời thực hiện các phép so sánh khi có thể (xem phần 2).
Trong dạng này sẽ có rất nhiều cơ hội để chúng ta thực hiện các phép so sánh. Tương tự thì chúng ta cũng có hai hướng để so sánh đó là so sánh giữa các thành phần trong một đối tượng và so sánh giữa các đối tượng với nhau.
Trong ví dụ trên giả sử chúng ta xét một đối tượng bất kỳ nào trong bốn quốc gia. Thì trong đối tượng này sẽ luôn có ba thành phần là electricity production, transport và industry. Trong ba thành phần này chắc chắn sẽ có những thành phần cao, thấp hoặc bằng nhau. Đây là khi chúng ta có thể sử dụng các phép so sánh.
Để thực hiện được các phép so sánh này buộc chúng ta phải nắm vững được cách sử dụng những cấu trúc so sánh hơn và so sánh nhất.
Ngoài ra chúng ta cũng thường cần dùng thêm các liên từ thể hiện sự tương phản như “while, whereas, whilst”. Nếu như chúng ta dùng các “time connectors” để nối các sự kiện của một đối tượng trong dạng biểu đồ có dữ liệu thay đổi theo thời gian, thì sử dụng các liên từ kiểu này là cách dùng phổ biến nhất trong dạng này.
Bây giờ hãy quan sát những sự so sánh được thực hiện ở trong cả bốn đối tượng:
In China, industry was the greatest cause of air pollution, producing
exactly 80 ppm, relatively higher than figures for transport, at just
under 70 ppm, and electricity production, at almost 60 ppm. Japan’s air
pollution levels followed a similar trend. While industry and
transportation there discharged 41 and 30 ppm respectively, electricity
generation produced only 10 ppm, which was the lowest figure
overall.
In America, transport was the primary polluter, producing approximately
55 ppm, followed by industry (a little under 40 ppm) and electricity
generation (30 ppm). By contrast, Australia generated very low amounts
of noxious emissions, with all three categories being slightly below 20
ppm.
Tương tự như Part One, nếu chúng ta nhận thấy sự tương đồng hoặc khác biệt nào đó giữa hai đối tượng thì chúng ta có thể dùng các cụm như “similarly, in contrast, by contrast” để làm nổi bật điểm tương đồng, khác biệt này ngay đầu câu miêu tả đối tượng tiếp theo.
Ngoài ra nếu hai đối tượng hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản về “thứ tự của các cột (số liệu) thành phần” chúng ta cũng có thể dùng:
X followed/showed a similar pattern/trend. (tương đồng)
X followed/showed an opposite pattern/trend. (tương phản)
Tương tự chúng ta cũng có thể so sánh giá trị của một cột (số liệu) thành phần của một đối tượng với những đối tượng khác, ví dụ như trường hợp đó là cột (số liệu) cao nhất hoặc thấp nhất trong cả biểu đồ. Trường hợp này chúng ta có thể dùng phép so sánh hơn hoặc so sánh nhất để đề cập đến, thường thì chúng ta nên dùng mệnh đề quan hệ để không làm đứt mạch mô tả đối tượng chính:
Electricity generation produced only 10 ppm, which was the lowest figure overall
Bây giờ hãy quan sát những sự so sánh trên được thực hiện trong phần thân bài mẫu, lưu ý chúng được gạch nét đứt:
In China, industry was the greatest cause of air pollution, producing
exactly 80 ppm, relatively higher than figures for transport, at just
under 70 ppm, and electricity production, at almost 60 ppm. Japan’s air
pollution levels followed a similar trend. While industry and
transportation there discharged 41 and 30 ppm respectively, electricity
generation produced only 10 ppm, which was the lowest figure
overall.
In America, transport was the primary polluter, producing approximately
55 ppm, followed by industry (a little under 40 ppm) and electricity
generation (30 ppm). By contrast, Australia generated very low amounts
of noxious emissions, with all three categories being slightly below 20
ppm.
Exercise A
You should spend about 20 minutes on this task.
The bar chart shows the estimated percentage of car trips by purpose and gender of drivers in 2005. Summarise the information by selecting and reporting the main features, and make comparisons where relevant. (Đề thi ngày 13/9/2018)
Write at least 150 words.
Hướng dẫn
Phần tổng quan Chúng ta có hai loại đối tượng, loại một là “tám mục đích của car trips” và loại hai là “men và women”. Xét men và women chúng ta không thấy đối tượng nào luôn cao hơn đối tượng còn lại ở cả tám mục đích (cao hơn ở phần lớn các mục đích cũng không). Vì vậy chúng ta không cần tìm ý theo hướng thứ nhất này. Xét 8 mục đích thì chúng ta thấy “work” cao hơn tất cả các mục đích khác đối với cả men và women. Đây là ý chúng ta có thể dùng để viết phần tổng quan.
Phần thân bài Chúng ta có thể chia phần thân bài theo “mục đích” hoặc theo “giới tính”, tuy nhiên như đã hướng dẫn nếu có thể thì trong dạng biểu đồ cột chúng ta nên chia phần thân bài dựa vào các cụm cột.
Ở đây có tới 8 cụm cột thì sẽ có rất nhiều cách để cho chúng ta gom các đối tượng vào các đoạn thân bài. Đây là một gợi ý: Vì “work” và “shopping” nhìn chung chiếm hai tỷ lệ cao nhất nên chúng ta có thể miêu tả chúng ở đoạn đầu tiên. “Courses” thì có tỷ lệ men và women tương đương nhau, khá khác với những đối tượng còn lại nên chúng ta cũng có thể bỏ chung chúng vào đoạn đầu.
Năm đối tượng còn lại khá giống nhau chỉ có một cột cao một cột thấp, chúng ta có thể gom “visiting friends”, “running errands” và “bank” để nói cùng một lúc vì chúng có cột women cao hơn cột men. Trái ngược có cột men cao hơn cột women có thể gom chung là “visiting town” và “recreation”. Gom đối tượng như vậy chúng ta có thể thực hiện được rất nhiều phép so sánh giữa chúng.