Thành viên trong nhóm là sinh viên khóa 2018, khoa Toán Kinh tế, trường Đại học Kinh tế - Luật
Để tạo được các loại biểu đồ trong bài viết này, cần cài đặt một số gói R cần thiết.
Thái Lan hiện là một trong những quốc gia có nền kinh tế thuộc top đầu Đông Nam Á và là đối thủ của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, du lịch, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thể thao,… Trong khi Việt Nam lại là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển còn thua kém nhiều mặt so với các nước láng giềng. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 12/2006, ngay sau đó Việt Nam lại bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 – 2009, khiến nền kinh tế có nhiều lúc thăng trầm. Dù khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan đang còn khá lớn, nhưng không phải là không thể rút ngắn lại. Với tiềm năng của Việt Nam hiện nay, cộng với những hạn chế trong quá trình phát triển của Thái Lan, chắc chắn Việt Nam sẽ có thể đuổi kịp trong tương lai. Tất nhiên, đi kèm theo đó là sự nỗ lực hết sức và các giải pháp phù hợp, hiệu quả. Để đuổi kịp Thái Lan, Việt Nam vẫn còn một chặng đường đầy khó khăn phía trước. Theo nghiên cứu gần đây, có khá nhiều nhận định cho rằng Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có thể vượt được Thái Lan trong tương lai. Tại sao lại có những nhận định này? Để tìm hiểu tại sao lại có nhận định này thì nhóm Data Visualization with R của chúng tôi xin được điểm lại những chỉ tiêu chính về tăng trưởng kinh tế của hai quốc gia Asean này trong giai đoạn 2008 - 2018.
GDPplot = ggplot(data = Dataset,
mapping = aes(
x = Time,
y = GDP,
fill = Country
)) +
geom_col(position = "dodge",
width = 0.7,
col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008, 2018, 1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(prefix = "$", suffix = "b")) +
scale_fill_manual(values = c("Goldenrod", "Red2")) +
labs(title = "GDP of Thailand and Vietnam from 2008 - 2018",
x = " Year",
y = "GDP"
) +
theme_economist(base_size = 12, base_family = "Gill Sans MT")
ggplotly(GDPplot)“GDP (Gross Domestic Product) là tổng sản phẩm nội địa tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ hay quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.”
Quan sát từ biểu đồ, ta nhận thấy Thái Lan trong 10 năm trở lại đây có chỉ số GDP luôn cao hơn gấp đôi, gấp 3 so với Việt Nam. Tuy nhiên có một xu hướng khác biệt rất rõ ràng giữa 2 đất nước. Từ năm 2008 tới 2018, GDP của Việt Nam luôn có xu hướng tăng trưởng ổn định trong khi đó GDP của Thái Lan cũng có chiều hướng tăng nhưng có 1 sự giao động không ổn định từ năm 2013 tới năm 2017.
Từ năm 2008 đến năm 2018, GDP của Thái Lan chạm đáy thấp nhất 281.71 (Billion USD) vào năm 2009. GDP của Việt Nam chạm đáy vào năm 2008 với con số xấp xỉ 100 (Billion USD). Quan sát biểu đồ ta thấy rõ rằng Việt Nam có sự tăng trưởng nhẹ nhưng ổn định. Từ năm 2008-2013, GDP của Thái Lan luôn cao gần gấp 3 lần so với GDP của Việt Nam. Nhưng từ năm 2014 trở đi, ta nhận thấy GDP Việt Nam thua GDP Thái Lan chỉ còn khoảng 2 lần. Điều này cho thấy GDP Việt Nam đang có một sự tăng trưởng rất tốt. Cho thấy dấu hiệu về một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đời sống của người dân ngày một đầy đủ, giàu có hơn.
Thời kì từ năm 2013-2015 nền kinh tế của Thái Lan có 1 sự khủng hoảng nhẹ khi GDP sụt giảm từ 420.33 xuống còn 401.30. Giảm gần 20 tỉ đô. Nhưng sau đó tăng trưởng rất chậm. Cho đến năm 2017 và gần đây nhất là năm 2018, GDP Thái Lan tăng vọt lên khoảng 500 tỉ đô. Điều này nhận thấy, người dân Thái đang rất tích cực trong việc cải thiện đời sống hằng ngày cũng như đóng góp ít nhiều vào nền kinh tế nước nhà.
Trong 10 năm, GDP của Việt Nam tăng từ ~100 tỉ đô (2008) đến ~250 tỉ đô (2018). Tăng khoảng 150 tỉ đô. Bên cạnh đó, GDP của Thái Lan tăng từ ~300 tỉ đô (2008) đến ~500 tỉ đô (2018). Tăng khoảng 200 tỉ đô. Những điều này cho thấy kinh tế của Thái Lan tăng trưởng tốt hơn so với Việt Nam.
ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = GDPGrow/100, color = Country)) +
geom_line(size = .8) +
geom_point(size = 4) +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018, 1)) +
scale_y_continuous(labels = percent) +
scale_color_manual(values = c("Goldenrod", "Red2")) +
labs(title = "GDP growth rate of Vietnam and Thailand from 2008 - 2018",
subtitle = "Annual percentage growth rate of GDP",
caption = "Source: WDI (https://databank.worldbank.org)",
x = "Year", y = "Rate") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(colour = "#660000", size = 14),
plot.subtitle = element_text(colour = "#660000", size = 12),
plot.caption = element_text(size = 10),
legend.text = element_text(size = 10),
legend.background = element_rect(fill = "Linen", colour = "Moccasin")) +
transition_reveal(Time)“Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt mức 7,08%, cao nhất kể từ năm 2008 và thuộc nhóm các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới”
Tăng trưởng GDP cao nhất trong vòng 10 năm Năm 2018, GDP cả nước tăng 7.08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008, vượt mục tiêu đề ra là 6.7%. Trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3.76%, đóng góp 8.7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8.85%, đóng góp 48.6%; khu vực dịch vụ tăng 7.03%, đóng góp 42.7%. Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2018, tiêu dùng cuối cùng tăng 7.17% so với năm 2017; tích lũy tài sản tăng 8.22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14.27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 12.81%.
Theo như quan sát trên đồ thị, Thái Lan có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất chóng mặt, dao động lên xuống với biên độ dao dộng rất lớn, tăng giảm liên tục và không có được sự ổn định. GDP grow của Thái Lan chạm đáy vào năm 2009 với chỉ số -0.69%. Một con số âm kỉ lục và rất đáng báo động vào năm đó cho tình hình phát triển kinh tế của Thái Lan. Nhưng sau đó 1 năm vào năm 2010, kinh tế Thái Lan vực dậy mạnh, có một sự thay đổi ngoạn mục cao nhất tính đến thời điểm hiện tại là 7.51%. Chỉ trong vòng 1 năm, đất nước Thái lan đã rất giỏi chèo lái để ổn định lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng ngay sau năm 2010, với con số đáng khen và học hỏi thì tốc độ tăng trưởng lại sụt giảm nghiêm trọng, gần như về mức 0 với tỉ lệ 0.84%. Con số này tiếp tục tăng vào năm 2012 rồi lại tụt giảm nhanh chóng vào năm 2013 và 2014. Sau thời điểm này, GDP grow của Thái Lan lại đứng vững và tiếp tục tăng trưởng ổn định, tăng nhẹ và không giảm cho tới thời điểm hiện tại. 4.13% là chỉ số GDP Grow của Thái Lan vào năm 2018.
So với sự dao động tăng giảm nhanh chóng của Thái Lan, Việt Nam lại giữ vững được phong độ ổn định. Bắt đầu vào năm 2008 với con số là 5.66%, cao hơn gấp 3 lần so với của Thái lan. Từ năm 2008 đến năm 2015, con số này giao động tăng giảm lên xuống liên tục, chạm đáy thấp nhất vào năm 2012 (5.25%). Từ năm 2016 trở đi, chỉ số này có xu hướng tăng mạnh từ 6.21% đến 7.08% (2018). Con số gây ấn tượng mạnh với đất nước Việt Nam, cao nhất từ năm 2008 cho đến năm 2018. Cho thấy, Việt Nam là một đất nước đang phát triển kinh tế tốt, ổn định so với Thái Lan và các nước trong khu vực. Với những kết quả đã đạt được, Phó thủ tướng Trương Hoà Bình cho rằng trong thời gian tới, tình hình kinh tế thế giới, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; nhất là xung đột thương mại, điều chỉnh chính sách giữa các nước lớn và những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế; cạnh tranh ngày càng gay gắt trên nhiều mặt. Trong khi đó, nền kinh tế nước ta còn những hạn chế, yếu kém. Nhiệm vụ đặt ra từ nay đến cuối năm 2019 và trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ là rất nặng nề. Từ đây, Chính phủ đưa ra 7 giải pháp cho thời gian tới.Bảy giải pháp này bao gồm:
Kiên định mục tiêu củng cố nền tảng vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng;
Thực hiện quyết liệt cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tăng cường phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Chủ động đẩy mạnh thông tin và truyền thông. Tăng cường công tác phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể.
CapGDPplot = ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = CapGDP, fill = Country)) +
geom_col(position = "dodge", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008, 2018, 1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar) +
labs(title = "GDP per Capita of Thailand and VietNam from 2008 to 2018",
x= "Year", y= "GDP per Capita") +
theme_bw()
ggplotly(CapGDPplot)Quan sát từ đồ thị, chúng ta có thể nhận thấy một sự khác biệt rõ rệt rằng GDP bình quân đầu người của Thái Lan cách xa và cao hơn rất nhiều so với CapGDP của Việt Nam.
Cùng xuất phát điểm vào năm 2008, CapGDP của Thái bắt đầu với con số xấp xỉ 4400 USD trong khi đó Việt Nam chỉ ở mức 1200 USD. Con số của Thái gấp 4 lần Việt Nam. Trong những năm tiếp theo, cả 2 quốc gia đều đã đẩy con số này tăng lên. Tuy vậy, Việt Nam với xu hướng tăng nhẹ, từ năm 2008 – 2018 tăng lên đến ~2600 USD. Với nỗ lực trong vòng 10 năm, Việt Nam cũng đã có được sự tiến bộ rất đáng khen. Nhưng con số ở năm 2018 cũng ko bằng được với con số xuất phát điểm vào năm 2008 của Thái Lan. Việt Nam chỉ tăng được khoảng 1400 USD từ 2008-2018. Quan sát kĩ, ta còn nhận thấy từ năm 2014-2015, thời gian này tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam là kém nhất so với các năm khác. Tiến độ phát triển GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn rất chậm. Việt Nam còn phải đổi mới nhiều hơn nữa, cần phải đẩy mạnh nhiều hơn nữa các chính sách, công cụ để hỗ trợ phát triển người dân. Từ đó làm tăng tốc độ phát triển, cải thiện đời sống rất nhiều cho người dân đất Việt.
Thái Lan trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế cho người dân của họ nhận thấy được rất nhiều nỗ lực, sự cố gắng của Chính phủ Thái cũng như sự đóng góp công lao của nhân dân Thái. Nhìn chung, trong 10 năm GDP bình quân đầu người của Thái Lan tăng đáng kể. Đỉnh điểm là năm 2018 đã đạt mức cao, rất nổi bật với con số 7200 USD. Tuy vậy, Thái Lan không giữ vững được phong độ ổn định như ở Việt Nam. Con số này dao động với tần suất mạnh, tăng giảm liên tục qua các năm. Điều này nhận thấy, CapGDP của Thái Lan không có sự ổn định. Chính phủ Thái Lan cần phải quản lý, thắt chặt mọi hoạt động để có được sự cân bằng. Từ đó, tốc độ phát triển kinh tế sẽ tăng trưởng tốt, cuộc sống của người Thái sẽ ổn định, không lo sợ sự biến đổi liên tục của kinh tế làm ảnh hưởng đến cuộc sống.
Popplot = ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = Population, fill = Country, color = Country)) +
geom_col(position = "dodge", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018,1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(prefix = "", suffix = "m")) +
labs(title = "Population of Thailand and Vietnam from 2008 - 2018",
x = "Year", y = "Population") +
theme_bw() +
theme(plot.title = element_text(colour = "#660000", size = 14),
legend.text = element_text(size = 10),
legend.background = element_rect(fill = "Linen", colour = "Moccasin"))
ggplotly(Popplot)Nhìn chung, dân số của 2 nước Việt Nam và Thái Lan được xem 2 nước đông dân trên Thế giới. Năm 2018, trên bản đồ dân số Thế giới, Việt Nam và Thái Lan đều lọt top 20 nước đông dân nhất Thế giới với thứ tự lần lượt là 14 và 20. Mặc dù GDP của Thái Lan cao hơn Việt Nam nhưng dân số của Thái Lan nhìn chung lại thấp hơn Việt Nam rất nhiều, thấp hơn từ 15-20 triệu dân.
Trong giai đoạn 2008-2018, dân số Thái Lan đã tăng 2.9 triệu người (1.04 lần), dân số Việt Nam với tốc độ tăng nhanh hơn tăng 9.3 triệu dân (1.11 lần). Qua đó cho ta thấy chỉ trong 10 năm nhưng số người mà Việt Nam đã tăng đã gấp 3 lần số người đã tăng ở Thái Lan. Nhìn chung dân số Thái Lan có sự bình ổn qua các năm và dần đi đến cơ cấu dân số già nếu cứ giữ sự bình ổn như vậy trong thời gian dài; còn Việt Nam có sự tăng trưởng dân số qua các năm khá đều đặn sẽ đem đến cho Việt Nam là một nước có cơ cấu dân số trẻ và ngày nay là một nước cơ cấu dân số vàng. Trong khoảng 10 năm qua, dân số Việt Nam cũng tăng thêm 9,3 triệu người, tính bình quân mỗi năm tăng thêm gần 01 triệu người từ mức 86,24 triệu dân năm 2008 tăng lên 95,54 triệu dân năm 2018.
“Từ những dẫn chứng và biểu đồ trên đã cho ta thấy, dân số Việt Nam cao hơn Thái Lan nhưng trình độ phát triển kinh tế của Thái Lan lại cao hơn. Từ đó nhận ra được rằng là Thái Lan có thể chăm lo cho đời sống người dân tốt hơn là ở Việt Nam, có nhiều công ăn việc làm cho người dân hơn và giảm các tệ nạn xã hội hơn. Mặc dù vậy Việt Nam đã và đang thực hiện chính sách: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang Dân số và Phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”."
“Cán cân thương mại có vai trò quan trọng với một đất nước. Qua cán cân thương mại, ta biết được nước đó trong tình trạng nhập siêu hay xuất siêu. Từ đó, chính phủ sẽ đưa ra các chính sách để điều chỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế mà đất nước đó đề ra.”
a. Việt Nam
dts = data.frame(Nation = Country, Year = Time,
Imports, Exports, Balance_of_trade = Exports - Imports)
data1 = gather(dts, Variable, Value, Exports, Imports, Balance_of_trade)
balanceVN = ggplot(data1, aes(x = Year, y = Value, fill = Variable)) +
geom_col(data = subset(data1, Nation == "Vietnam"), width = .8,
position = "dodge", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018,1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(prefix = "$", suffix = "b")) +
scale_fill_manual(values = c("cornflowerblue", "Goldenrod", "Red2"),
labels = c("Balance of trade", "Export", "Import")) +
labs(title = "The balance of trade of Vietnam from 2008 - 2018",
x = "Year", y = "Current billion US$",
fill = "") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(color = "DarkRed", size = 16, hjust = .5),
panel.background = element_rect(fill = "MintCream"))
ggplotly(balanceVN)Nhìn chung, tình hình xuất nhập xuẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm với tốc độ cao.
Theo đó, tổng giá trị xuất khẩu của cả nước đạt 233.65 tỷ USD năm 2018, tăng 235.12% so với năm 2008. Còn tổng trị giá hàng hóa nhập khẩu đạt 225.68 tỷ USD, cũng tăng 171.1% so với thời gian năm 2008.
ới kết quả này, năm 2008, Việt Nam từ một nước thâm hụt thương mại (nhập siêu) đã trở thành một nước thặng dư thương mại (xuất siêu). Cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2018 có thặng dư 7.97 tỷ USD. Cán cân thương mại đã được cải thiện, không còn tình trạng thâm hụt. Với tốc độ tăng trưởng cao, Việt Nam sẽ trở thành đối thủ cân sức với các quốc gia trong khu vực và quốc tế.
b. Thái Lan
# Lấy dữ liệu từ data1 đã code phía trên
balanceTL = ggplot(data1, aes(x = Year, y = Value, fill = Variable)) +
geom_col(data = subset(data1, Nation == "Thailand"), width = .8,
position = "dodge", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018,1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(prefix = "$", suffix = "b")) +
scale_fill_manual(values = c("cornflowerblue", "Goldenrod", "Red2"),
labels = c("Balance of trade", "Export", "Import")) +
labs(title = "The balance of trade of Thailand from 2008 - 2018",
x = "Year", y = "Current billion US$",
fill = "") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(color = "DarkRed", size = 16, hjust = .5),
panel.background = element_rect(fill = "MintCream"))
ggplotly(balanceTL)Nhìn chung, tình hình xuất nhập khẩu của Thái Lan có sự biến động giữa các năm, song Thái Lan vẫn đảm bảo sự tăng trưởng của xuất nhập khẩu.
Theo đó, tổng giá trị xuất khẩu của cả nước đạt 337.43 tỷ USD năm 2018, tăng 28.4% so với năm 2008. Còn tổng trị giá hàng hóa nhập khẩu đạt 285.26 tỷ USD, cũng tăng 11.78% so với thời gian năm 2008.
Với kết quả này, Thái Lan là một quốc gia thặng dư thương mại, tình hình xuất nhập khẩu của Thái Lan có sự tăng trưởng nhẹ trong giai đoạn nhưng sự biến động trong các năm là thách thức đối với chính phủ, cần phải có những chính sách hợp lý để điều chỉnh sự tăng trưởng này.
ggplot(Dataset, aes(x = Country, y = FDI, fill = Country)) +
geom_col(col = "Black") +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(suffix = "b")) +
scale_fill_manual(values = c("blue", "red")) +
labs(
title = "Foreign Direct Investment of Thailand and Vietnam from 2008 -2018",
subtitle = "Year: {closest_state}",
x = "Country",
y = "Billion US$"
) +
geom_text(aes(label = FDI, vjust = -.5)) +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
transition_states(Time, transition_length = 12, state_length = 100)Cùng xuất phát điểm vào năm 2008, Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngoài chỉ nhỉnh hơn một chút so với Thái Lan ~9 tỉ đô la. Sau 10 năm, FDI của cả 2 nước đều tăng nhưng hãy quan sát kĩ xem sự gia tăng này có gì khác biệt nhau.
Năm 2009, cả 2 đều có sự sụt giảm nhẹ xuống mức dưới 8 tỉ đô la. Đến năm 2010, cả 2 cùng nhịp bước đã đẩy con số này tăng lên lại. Thái Lan với bước nhảy vọt tăng lên đến gần 15 tỉ đô. Cùng thời điểm đó Việt Nam chỉ tăng rất nhẹ chạm mức 8 tỉ đô la, thua xa rất nhiều so với Thái Lan. Nhưng sau đó 1 năm, Thái Lan lại gặp phải khủng hoảng nghiêm trọng, làm con số từ 15 tỉ giảm gần hết xuống chỉ còn ~1 tỉ đô. Một con số thấp nhất cho tới thời điểm hiện tại. Thời kì đó, Thái Lan đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển nền kinh tế khi dòng vốn FDI đổ về Thái là rất thấp. Tuy vậy, điều đó không làm họ nản lòng mà còn vực dậy ý chí quyết tâm của họ. Chỉ sau 1 năm, FDI đổ về cho Thái Lan lại đạt mức 13 tỉ đô la. Tăng rất đáng kể so với năm trước đó. Rất đáng khen cho tinh thần, nỗ lực của chính phủ Thái Lan cũng như công sức lao động của nhân dân Thái. Năm 2013, Thái Lan lại đẩy con số này lên đỉnh điểm, chạm ngưỡng cao nhất so với thời điểm hiện tại là 16 tỉ đô la. Song song đó Việt Nam cũng giữ vững được đà tăng trưởng. Tăng ổn định trong các năm sau đó và chạm mức ~13 tỉ đô ở năm 2018.
Sau những cú nhảy lọt top ngoạn mục, Thái Lan sau đó không giữ vững phong độ, đã để nguồn vốn đổ vào nước sụt giảm rất nhiều chạm mức gần như là rất thấp vào năm 2016 là 3 tỉ đô. Tuy vậy, sụt giảm liên tiếp trong các năm đó nhưng 2 năm gần nhất là 2017 và 2018, Thái Lan lại tăng trưởng từ 8 tỉ đô lên đến ~12 tỉ đô. Nhìn từ biểu đồ, có những năm Thái Lan tăng rất cao và cũng có những năm sụt giảm nghiêm trọng. Biên độ giao động nguồn vốn FDI của Thái rất lớn, tăng giảm liên tục và không giữ được sự ổn định. Việt Nam tuy tăng trưởng nhẹ nhưng nhìn chung tốc độ tăng trưởng cũng khá tốt, giữ vững được phong độ và khẳng định được vị thế của mình so với Thái Lan. Rất đáng khen cho tinh thần của những người lao động ở Việt Nam đã làm rất giỏi để thu hút được rất nhiều nguồn vốn đầu tư ở nước ngoài đổ về mình. Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, theo dõi sát sao, tạo điều kiện thuận lợi, hợp thức hóa các chính sách mở cửa để chào đón nguồn vốn đầu tư FDI cho Việt Nam. Để kinh tế Việt Nam ngày một phát triển, vươn xa hơn nữa trong tương lai sắp tới. Để tạo công ăn việc làm cho người dân, để đời sống nhân dân được ấm no và hạnh phúc.
Data_new = Dataset[, c(1,3,12)] %>%
spread(Country, Unemplt)
highchart() %>%
hc_xAxis(categories = Data_new$Time) %>%
hc_add_series(name = "Vietnam",
data = Data_new$Vietnam) %>%
hc_add_series(name = "Thailand",
data = Data_new$Thailand) %>%
hc_colors(c("red", "blue")) %>%
hc_title(text = "Unemplotment rate of Thailand and Vietnam from 2008 - 2018",
margin = 20,
align = "left",
style = list(color = "black", fontWeight = "bold")) %>%
hc_subtitle(text = "Unit: Per cent",
align = "left") %>%
hc_credits(enabled = T,
text = "Source: World Development Indicators") %>%
hc_legend(align = "right",
verticalAlign = "top",
layout = "vertical",
x = 0,
y = 100) %>%
hc_tooltip(crosshairs = TRUE,
backgroundColor = "#FCFFC5",
shared = TRUE,
borderWidth = 4)a. Việt Nam
Năm 2008 ( 4,65%) và 2009 (4,6%) là 2 năm Việt Nam có tỷ lệ thất nghiệp cao do khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp phá sản dẫn đến tình trạng sa thải lao động. Cùng với đó, lạm phát năm 2008 cũng rất cao (23%). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao nhưng nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu tăng nhanh…
Cả thất nghiệp và lạm phát chịu tác động từ các chính sách của Chính phủ. Mỗi chính sách lại có những tác động khác nhau đến thất nghiệp và lạm phát. Từ năm 2008 đến nay, lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu khi mà mục tiêu Chính phủ đặt ra là “ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát”.
Đối với vấn đề thất nghiệp, với những chính sách giải quyết việc làm của Chính phủ, cộng với việc nền kinh tế ổn định sau suy thoái dần, mức thất nghiệp ngày càng giảm và ổn định, đến nay tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tiệm cận với mức thất nghiệp tự nhiên. Kết quả nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017 cho thấy, khi mà nền kinh tế càng lùi xa năm 2008 – năm đỉnh điểm của khủng hoảng kinh tế thì thất nghiệp sẽ có xu hướng ngày càng giảm và ổn định, có xu hướng tiệm cận dần mức thất nghiệp tự nhiên, nhất là trong năm 2008 và 2011 khi mà lạm phát tăng cao đột biến. Tuy nhiên, so với thất nghiệp, lạm phát có xu hướng biến động phức tạp hơn nhiều.
Khi xét tới lạm phát kỳ vọng, mặc dù có mối quan hệ nghịch giữa thất nghiệp và lạm phát nhưng sự đánh đổi này thể hiện không rõ ràng, kể cả khi phân tích số liệu trong thời đoạn ngắn.
Như vậy, trong giai đoạn năm 2008 đến 2017 ở Việt Nam, mặc dù có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát, song điều này không mấy rõ ràng, mức độ đánh đổi, không cao. Theo thời gian, lạm phát diễn biến phức tạp, trong khi thất nghiệp ngày càng ổn định và tiệm cận với mức thất nghiệp tự nhiên.
b. Thái Lan
Tương tự như Việt Nam năm 2008 và 2009 là 2 năm Thái Lan có tỷ lệ thất nghiệp cao do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp phá sản dẫn đến tình trạng sa thải lao động.
Đến giai đoạn từ năm 2010 và năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp của Thái Lan rất thấp gần như nằm dưới mốc 1% và với những nỗ lực này Thái Lan được xếp vào top các quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới, có thể thấy được Chính phủ Thái Lan đã đi đúng hướng để cải thiện cuộc sống cũng như vận dụng sức lao động của nguồn nhân lực quốc gia. Chính những chính sách mở cửa mà Thái Lan thu hút được lượng vốn đầu tư từ nước ngoài rất lớn, đáng ngưỡng mộ vì thế mà việc tạo công ăn việc làm cho người dân trở nên nhẹ nhàng hơn. Lượng cung tiền lớn ảnh hưởng tốt đến sự gia tăng các hoạt động sản xuất của người dân.
Data_new = Dataset[, c(1,3,16)] %>%
spread(Country, Inflation)
highchart() %>%
hc_xAxis(categories = Data_new$Time) %>%
hc_add_series(name = "Vietnam",
data = Data_new$Vietnam) %>%
hc_add_series(name = "Thailand",
data = Data_new$Thailand) %>%
hc_colors(c("red", "blue")) %>%
hc_title(text = "Inflation rate of Thailand and Vietnam from 2008 - 2018",
margin = 20,
align = "left",
style = list(color = "black", fontWeight = "bold")) %>%
hc_subtitle(text = "Unit: Per cent",
align = "left") %>%
hc_credits(enabled = T,
text = "Source: World Development Indicators") %>%
hc_legend(align = "right",
verticalAlign = "top",
layout = "vertical",
x = 0,
y = 100) %>%
hc_tooltip(crosshairs = TRUE,
backgroundColor = "#FCFFC5",
shared = TRUE,
borderWidth = 4)a. Việt Nam
Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam chững lại, được cho bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có khủng hoảng tài chính 2007-2010, dẫn đến tỷ lệ lạm phát tăng tốc với con số lên tới hơn 23%, cao nhất trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018.
Tháng 5 năm 2009, Chính phủ tung ra gói kích cầu có giá trị 160 nghìn tỷ đồng . Gói kích cầu có ảnh hưởng tốt nhất định , tuy nhiên cũng để lại nhiều hệ lụy sau này: tạo bong bóng đầu cơ, bong bóng chứng khoán và bất động sản, lạm phát tăng cao, thâm hụt ngân sách nặng dẫn tới nợ nhà nước tăng cao, gây bất ổn định tỷ giá và bất ổn định kinh tế vĩ mô.
Cụ thể quý II/2008, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt đã góp phần hạn chế được lạm phát trong 2 năm tiếp theo xuống mức một con số . Tuy nhiên, đến năm 2011, lạm phát lại tăng vọt lên mức 18,58%.
Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam có sự biến động khá lớn và nổi bật lên ở một số năm tiêu biểu, nhưng song về hiện tại lạm phát Việt Nam đang ở mức lạm phát một con số là dấu hiệu khả quan cho sự nỗ lực và những chính sách của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay và mặt ảnh hưởng của tỷ lệ lạm phát với nền kinh tế Việt Nam.
b. Thái Lan
Thái Lan là nền kinh tế lớn thứ hai Đông Nam Á sau Indonesia. Đây là vị trí mà Thái Lan đã nắm giữ trong nhiều năm qua. Tuy nhiên sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2007- 2010 cũng có sự tác động đáng kể đến nền kinh tế của Thái Lan, dẫn chứng là ở năm 2008 tỷ lệ lạm phát của quốc gia này nằm ở mức 6%.
Mức độ lạm phát của Thái Lan có sự giao động theo tốc độ tăng trưởng GDP, không thể phủ nhận nền kinh tế của Thái Lan đã vững mạnh từ trước nhưng chính sách mà Ngân hàng Trung ương Thái Lan đang áp dụng vào chính sách tiền tệ chưa thật sự tạo ra sự bứt phá cho nền kinh tế Thái Lan khi đã có nền tảng về kinh tế, khoa học và công nghệ tốt.
“Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển.”
Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính:
Ngành nông nghiệp (SerPerGDP), trong nông nghiệp bao gồm 3 ngành nhỏ là nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Ngành công nghiệp (ManuPerGDP), bao gồm ngành công nghiệp và xây dựng.
Ngành dịch vụ (SerPerGDP) bao gồm ngành thương mại , bưu điện và du lịch,…
Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính:
Ngành nông nghiệp (SerPerGDP), trong nông nghiệp bao gồm 3 ngành nhỏ là nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Ngành công nghiệp (ManuPerGDP), bao gồm ngành công nghiệp và xây dựng.
Ngành dịch vụ (SerPerGDP) bao gồm ngành thương mại , bưu điện và du lịch,…
a. Sự khác biệt về cơ cấu ngành ở Việt Nam
StructureVN = Dataset[, c(1, 3, 17, 18, 19)] %>%
gather(Variable, Value, AgrPerGDP, ManuPerGDP, SerPerGDP)
VNM = ggplot(data = subset(StructureVN, Country == "Vietnam"), aes(x=Time, y=Value, fill=Variable)) +
geom_bar(stat = "identity", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018,1)) +
labs(title = "Economic sector structure of Vietnam from 2008 to 2018",
x = "Year", y = "Percent")
ggplotly(VNM)Nhìn chung, biến động cơ cấu ngành của Việt Nam khá đồng đều. Cơ cấu ngành nông nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ nhất đến công nghiệp và chiếm tỉ trọng cao nhất là dịch vụ. Trong giai đoạn 2008-2018, cơ cấu ngành nông nghiệp giảm liên tục (giảm 5.84%) và công nghiệp những năm đầu 2008-2011 giảm mạnh (giảm 5.6%) nhưng đã có tăng nhẹ trở lại vào cuối giai đoạn (tăng 0.78%). Còn cơ cấu dịch vụ tăng trưởng khá đều với tỉ trọng từ 41-42%. Cụ thể, năm 2018:
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 7 năm qua, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là điểm sáng đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế với mức tăng cao 12,98%, tuy thấp hơn mức tăng của năm 2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm 2012-2016, đóng góp 2,55 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Kết quả tăng trưởng cho thấy nền kinh tế đã thoát khỏi sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tài nguyên khi năm 2018 là năm thứ ba liên tiếp công nghiệp khai khoáng tăng trưởng âm (giảm 3,11%), làm giảm 0,23 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Khu vực dịch vụ năm 2018 tăng 7,03%, cao hơn mức tăng các năm giai đoạn 2012-2016, trong đó các ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP như bán buôn, bán lẻ; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; dịch vụ lưu trú và ăn uống; vận tải, kho bãi… đều đạt mức tăng trưởng khá. Hoạt động thương mại dịch vụ năm 2018 có mức tăng trưởng khá, sức mua tiêu dùng tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay đạt 4.395,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2017.
b. Sự khác biệt về cơ cấu ngành ở Thái Lan
StructureTL = Dataset[, c(1, 3, 17, 18, 19)] %>%
gather(Variable, Value, AgrPerGDP, ManuPerGDP, SerPerGDP)
THA = ggplot(data = subset(StructureVN, Country == "Thailand"), aes(x=Time, y=Value, fill=Variable)) +
geom_bar(stat = "identity", col = "black") +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2018,1)) +
labs(title = "Economic sector structure of Thailand from 2008 to 2018",
x = "Year", y = "Percent")
ggplotly(THA)Nhìn chung, biến động cơ cấu ngành của Thái Lan không đồng đều. Cơ cấu ngành nông nghiệp chiếm tỉ lệ nhỏ nhất đến công nghiệp rồi đến dịch vụ. Trong giai đoạn 2008-2018, cơ cấu ngành nông nghiệp và công nghiệp những năm đầu giai đoạn giảm và những năm sau có xu hướng tăng trở lại. Cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng xấp xỉ các giá trị lần lượt là 8-10%, 27-30% và 50-55%.
c. Sự giống và khác nhau giữa cơ cấu ngành 2 nước Việt Nam và Thái Lan
Cơ cấu ngành kinh tế giữa Việt Nam và Thái Lan nhìn chung khá giống nhau. Đó là cơ cấu ngành nông nghiệp chiếm tỉ trọng thấp nhất và cơ cấu ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất. Trong đó Việt Nam có cơ cấu ngành công nghiệp và nông nghiệp cao hơn Thái Lan. Vì Việt Nam là nước đang phát triển nên đang dần chuyển đổ cơ cấu ngành sang công nghiệp và dịch vụ nên cơ cấu công nghiệp và dịch vụ đang ngày càng cao; những cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn lớn và lớn hơn Thái Lan vì Việt Nam xuất thân là một nước nông nghiệp và có nhiều thế mạng về nông nghiệp nên mặc dù giảm nhưng vẫn chiếm tỉ trọng cao. Thái Lan là nước có cơ cấu ngành dịch vụ cao hơn Việt Nam trong xuyên suốt giai đoạn 2008-2018. Vì hiện nay Thái Lan là một nước công nghiệp mới (NICs) với du lịch là lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế.
“Kết luận: Mặc dù 2 nước có những điểm khác biệt trong cơ cấu kinh tế nhưng đều có tốc độ phát triển cơ cấu ngành ổn định qua các năm. Hiện nay, Việt Nam và Thái Lan là 2 nước có quan hệ đang ngày càng được tăng cường và phát triển thuận lợi, quan hệ kinh tế thương mại sẽ được tiếp tục mở rộng.”
Nhìn chung, bức tranh du lịch của Việt Nam và Thái Lan có chênh lệch lớn về cả số lượng khách du lịch, mức chi trả cho du lịch của khách du lịch quốc tế và tỉ trọng ngành du lịch trong GDP.
a. Lượng du khách quốc tế
p1 = ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = NumArr, fill = Country)) +
geom_col(data = subset(Dataset, Time < 2018),
position = "dodge", col = "black", width = .5) +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2017,1)) +
scale_fill_manual(values = c("Goldenrod", "Red2")) +
labs(title = "Number tourist to Thailand and Vietnam",
x = "Year", y = "Number") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(colour = "#660000", size = 14),
legend.text = element_text(size = 10),
legend.background = element_rect(fill = "Linen", colour = "Moccasin"))
ggplotly(p1)Ở Thái Lan, số lượng khách du lịch trong suốt giai đoạn 2008-2017 là từ 15-35 tỉ người, cao hơn Việt gấp 3 lần, Việt Nam chỉ đạt được từ 4-12 tỉ người trong suốt giai đoạn trên.
Trong đó, số lượng khách du lịch Việt Nam ngày tăng, từ năm 2008-2017 đã tăng hơn 6 tỉ người(~2.36 lần). Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Du lịch đang ngày càng nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch là những vấn đề nhận được nhiều sự chú ý và thảo luận rộng rãi. Một cách tiếp cận đa chiều về đánh giá chất lượng du lịch sẽ góp phần hình thành các giải pháp đúng đắn nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam.
Số lượng khách du lịch Thái Lan cũng tăng nhanh và lớn hơn rất nhiều trong giai đoạn 2008-2017 khi tăng hơn 21 tỉ người (2.44 lần). Trong suốt giai đoạn đó, số lượng khách du lịch tăng ở Thái Lan cao gấp 3 lần so với Việt Nam. Từ đó cho thấy du lịch ở Thái Lan đang rất phát triển và chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu ngành dịch vụ và đặc biệt là GDP. Ngành du lịch ở Thái Lan được xem là một tiềm năng khi mà cả chính phủ và người dân Thái Lan đồng lòng xây dựng cho đất nước của mình thành một “Amazing Thailand”. Thái Lan nhanh chóng vươn lên trở thành một ngôi sao sáng trên bản đồ du lịch thế giới với số lượng khách du lịch rất cao và tăng nhanh qua các năm.
b. Chi tiêu của khách du lịch quốc tế
p2 = ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = SpeTou, fill = Country)) +
geom_col(data = subset(Dataset, Time < 2018),
position = "dodge", col = "black", width = 0.5) +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2017,1)) +
scale_y_continuous(labels = dollar_format(suffix = "b")) +
scale_fill_manual(values = c("Goldenrod", "Red2")) +
labs(title = "Expenditures of International tourism in Thailand and Vietnam",
x = "Year", y = "Current billion US$") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(colour = "#660000", size = 14),
legend.text = element_text(size = 10),
legend.background = element_rect(fill = "Linen", colour = "Moccasin"))
ggplotly(p2)c. Đóng góp của du lịch vào GDP
p3 = ggplot(Dataset, aes(x = Time, y = TourPerGDP, fill = Country)) +
geom_col(data = subset(Dataset, Time < 2018),
position = "dodge", col = "black", width = .5) +
scale_x_continuous(breaks = seq(2008,2017,1)) +
scale_y_continuous(labels = percent_format(scale = 1)) +
scale_fill_manual(values = c("Goldenrod", "Red2")) +
labs(title = " Per cent of tourism in GDP of Thailand and Vietnam",
x = "Year", y = "Per cent") +
theme_bw(base_family = "Gill Sans MT", base_size = 12) +
theme(plot.title = element_text(colour = "#660000", size = 14),
legend.text = element_text(size = 10),
legend.background = element_rect(fill = "Linen", colour = "Moccasin"))
ggplotly(p3)“Điều này cho thấy chất lượng du lịch Việt Nam đang dần tốt lên, đi vào chiều sâu thay vì chiều rộng theo đúng định hướng trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh”."