Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Trần Mạnh Tường. Trong quá trình học tập và tìm hiểu môn NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH TRONG PHÂN TÍCH DỮ LIỆU, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, hưỡng dẫn tâm huyết và tận tình của thầy. Thầy đã giúp em tích lũy thêm nhiều kiến thức về môn học này để có thể hoàn thành được bài tiểu luận về đề tài: PHÂN TÍCH GDP THỰC CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NGÀNH TỪ NĂM 2021 ĐẾN NĂM 2023 QUA CÁC QUÝ.
Trong quá trình làm bài chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em kính mong nhận được những lời góp ý của thầy để bài tiểu luận của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nghiên cứu về phân tích GDP thực của Việt Nam qua các ngành từ năm 2021 đến năm 2023 qua các quý là một nỗ lực hướng tới sự hiểu rõ sâu sắc về tình hình kinh tế và cung cấp thông tin quan trọng cho quyết định chính sách và chiến lược phát triển trong giai đoạn nghiên cứu này.
Đại dịch COVID-19 đã có tác động lớn đến nền kinh tế toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội đã gây ra gián đoạn trong chuỗi cung ứng, sản xuất và tiêu dùng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và sản xuất trong nhiều lĩnh vực.
Qua việc đánh giá tốc độ tăng trưởng GDP, nghiên cứu sẽ phân tích sự biến động của kinh tế Việt Nam qua từng năm, từng quý từ đó rút ra những kết luận về ổn định và động lực tăng trưởng. Đồng thời, sẽ tập trung vào cấu trúc ngành kinh tế, xác định đóng góp của từng lĩnh vực, và nhìn nhận về sự thay đổi trong cấu trúc kinh tế qua thời gian cụ thể là qua từng quý.
Mục tiêu của nghiên cứu là nắm bắt động lực của tăng trưởng kinh tế, phân loại đóng góp của các ngành kinh tế ,đồng thời phân tích các yếu tố tác động:
Đánh giá hiệu suất kinh tế: Xác định và đánh giá sự biến động của GDP theo từng quý để hiểu rõ về tình hình hiện tại và tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Phân tích sự thay đổi trong quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể giúp đánh giá mức độ đồng đều và bền vững của sự phát triển.
So sánh hiệu suất giữa các quý: Thực hiện so sánh giữa các quý để phân tích sự biến động và ổn định của nền kinh tế. Xác định các quý có sự tăng trưởng mạnh mẽ và những quý có biến động không lường trước được để tìm ra các nguy cơ và cơ hội.
Dự đoán xu hướng tương lai: Sử dụng dữ liệu hiện tại để đưa ra dự báo về xu hướng tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Điều này có thể cung cấp thông tin hữu ích cho doanh nghiệp, nhà đầu tư, và chính phủ để chuẩn bị cho những thách thức và cơ hội tương lai.
Quan hệ giữa tốc độ GDP tăng trưởng hàng năm, quan hệ giữ GDP ở các ngành kinh tế, các lượng tăng/ giảm qua các ngành.
Phân tích số liệu theo thống kê, tính các chỉ số về GDP để so sánh các ngành nghề theo năm, theo quý. Sau đó đưa ra dự báo cho năm 2024. Kết hợp với các biểu đồ tương ứng.
CHƯƠNG 1: Giới thiệu
CHƯƠNG 2: Tổng quan lý thuyết
CHƯƠNG 3: Phân tích GDP thực của Việt Nam 2021-2023
CHƯƠNG 4: Dự báo tăng trưởng năm 2024
CHƯƠNG 5: Tổng kết
GDP là viết tắt của cụm từ Gross Domestic Product, dịch ra là tổng sản phẩm nội địa hoặc tổng sản phẩm quốc nội. Đây là một chỉ số tiêu dùng đo lường tổng giá trị thị trường của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra ở một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP phản ánh giá trị sản xuất trong một khoảng thời gian cụ thể, thường là một năm hoặc một quý.
Phân loại GDP:
GDP bình quân đầu người: GDP bình quân đầu người là chỉ tiêu tính dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh của bình quân trên đầu người trong một năm. GDP bình quân đầu người của một quốc gia tại một thời điểm được tính bằng cách lấy số liệu GDP của quốc gia chia cho tổng số dân của quốc gia đó.
GDP danh nghĩa: GDP danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tổng sản phẩm quốc nội GDP và được tính theo giá cả thị trường.
GDP thực tế: GDP thực tế là chỉ tiêu dựa trên tổng sản phẩm, dịch vụ trong nước đã điều chỉnh theo tốc độ lạm phát lạm phát. Trường hợp lạm phát dương, GDP thực tế sẽ thấp hơn GDP danh nghĩa vì GDP thực tế bằng tỉ lệ giữa GDP danh nghĩa và hệ số giảm phát GDP.
Dân số: Dân số là nguồn cung cấp lao động để tạo ra của cải vật chất và cũng là đối tượng tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra. Dân số và GDP có mối quan hệ tác động qua lại không thể tách rời. Dân số chính là một trong những yếu tố không thể thiếu để tính GDP bình quân đầu người.
FDI: (Foreign Direct Investment) là chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI bao gồm tiền, phương tiện sản xuất, cơ sở hạ tầng…
Lạm phát: Là sự tăng giá chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo thời gian và thể hiện sự mất giá trị của một loại tiền tệ. Một quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao thì phải chấp nhận lạm phát. Tuy nhiên, khi lạm phát cao quá mức cho phép sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, vì vậy nhà nước luôn phải có các chính sách để kiểm soát lạm phát.
1. Phương pháp sản xuất:
GDP = Giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu
Trong đó, giá trị tăng thêm của từng ngành kinh tế có thể là thu nhập của người sản xuất, tiền công, bảo hiểm, khấu hao tài sản cố định, thuế sản xuất, giá trị thặng dư…
2. Phương pháp sử dụng cuối cùng:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó:
C: Tổng giá trị tiêu dùng cho sản phẩm và dịch vụ của các hộ gia đình trong quốc gia đó
I: Tổng giá trị tiêu dùng của các nhà đầu tư
G: Tổng giá trị chi tiêu của chính phủ
NX: Xuất khẩu ròng
3. Phương pháp thu nhập:
GDP = W + R + I + Pr + Ti + De
Trong đó:
W: Tiền lương
R: Tiền thuê
I: Tiền lãi
Pr: Lợi nhuận
Ti: Các khoản thuế dịch vụ, hàng hóa bán trên thị trường và trợ cấp của chính phủ cho sản xuất (thuế gián thu ròng).
De: Khấu hao tài sản cố định
Theo Quyết định 27/2018/QĐ-TTg, danh mục Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam gồm 5 cấp:
Ngành cấp 1 gồm 21 ngành được mã hóa theo bảng chữ cái lần lượt từ A đến U;
Ngành cấp 2 gồm 88 ngành; mỗi ngành được mã hóa bằng hai số theo ngành cấp 1 tương ứng;
Ngành cấp 3 gồm 242 ngành; mỗi ngành được mã hóa bằng ba số theo ngành cấp 2 tương ứng;
Ngành cấp 4 gồm 486 ngành; mỗi ngành được mã hóa bằng bốn số theo ngành cấp 3 tương ứng;
Ngành cấp 5 gồm 734 ngành; mỗi ngành được mã hóa bằng năm số theo ngành cấp 4 tương ứng.
Chi tiết Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
Dữ liệu về GDP thực của Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2023 qua từng quý, đơn vị là tỷ VND.
Dữ liệu đang phân tích gồm 12 quan sát và 29 biến gồm:
NGÀNH.KINH.TẾ…SO.SÁNH..TỶ.VND.: thời gian phân tích từ quý 1 năm 2021 đến quý 4 năm 2023.
GDP.THEO.GIÁ.SO.SÁNH: GDP thực của Việt Nam qua các thời gian phân tích.
GDP được tính qua 4 nhóm lớn:
Nông.nghiệp..lâm.nghiệp.và.thủy.sản:
Nông.nghiệp
Lâm.nghiệp
Thủy.sản
Công.nghiệp.và.xây.dựng:
Công.nghiệp:
Khai.khoáng
Công.nghiệp.chế.biến..chế.tạo
Sản.xuất.và.phân.phối.điện
Cung.cấp.nước.và.xử.lý.nước.thả
Xây.dựng
Dịch.vụ:
Bán.buôn.bán.lẻ..sửa.chữa.ô.tô..mô.tô..xe.máy
Vận.tải.kho.bãi
Dịch.vụ.lưu.trú.và.ăn.uống
Thông.tin.và.truyền.thông
Hoạt.động.tài.chính..ngân.hàng.và.bảo.hiểm
Hoạt.động.kinh.doanh.bất.động.sản
Hoạt.động.chuyên.môn..khoa.học.và.công.nghệ
Hoạt.động.hành.chính.và.dịch.vụ.hỗ.trợ
Hoạt.động.của.các.tổ.chức.chính.trị
Giáo.dục.đào.tạo
Y.tế.và.hoạt.động.cứu.trợ.xã.hội
Nghệ.thuật..vui.chơi.và.giải.trí
Hoạt.động.dịch.vụ.khác
Hoạt.động.làm.thuê.các.công.việc.trong.các.hộ.gia.đình
Thuế.sản.phẩm.trừ.trợ.cấp.sản.phẩm
Về tổng GDP:
Năm 2021: Việt Nam đạt 5133589.05 tỷ VND
Năm 2022: Việt Nam đạt 5550616.91 tỷ VND
Năm 2023: Việt Nam đạt 5830724.94 tỷ VND
Nhìn chung: tổng GDP thực của Việt Nam có xu hướng tăng theo thời gian.
Về tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân hay với những quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình đó là sự tích lũy tài sản cụ thể như vốn, lao động và đất đai và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn.
Vây tốc độ tăng trưởng có thể được hiểu là độ nhanh hay chậm của sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân hay với những quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Dựa vào công thức:
Tốc độ tăng trưởng GDP = (GDP năm sau / GDP năm trước) * 100%
Lượng tăng trưởng GDP = GDP năm sau - GDP năm trước
Qua bảng trên ta thấy được :
Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là 8.1% từ 2021 đến 2022 và 5.04% trong giai đoạn từ 2022 đến 2023.
Tương đương lượng GDP tăng từ năm 2021 đến 2022 là 417027.9 tỷ VND và từ 2022 đến 2023 là 210108 tỷ VND.
Vai trò của tăng trưởng kinh tế hết sức quan trọng vì nó giúp cải thiện đời sống của người dân, khích lệ áp dụng khoa học kỹ thuật, tạo ra tính năng động về mặt kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đối với chính phủ, tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu để chính phủ đánh giá kế hoạch điều hành, quản lý nền kinh tế có đạt được hiệu quả mong muốn hay chưa. Nhờ đó mà chính phủ có các chính sách an cư xã hội, tăng phúc lợi và củng cố chính trị, an ninh quốc phòng bên cạnh những biện pháp điều hành kinh tế trong năm tới.
Đối với các nhà kinh tế học và các doanh nghiệp, xem xét tốc độ tăng trưởng kinh tế giúp nắm bắt mức sống dân cư cũng như mức thu nhập bình quân đầu người để có những bước đi kinh doanh trong tương lai. Tuy nhiên, ở một số quốc gia có sự phân hóa sâu sắc về độ giàu – nghèo thì tuy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế là tăng hay thu nhập bình quân trên đầu người cao hơn nhưng sự thật là nhiều người vẫn có chất lượng sống vô cùng thấp.
Năm 2021 là một năm đầy thách thức với kinh tế Việt Nam, dịch Covid-19 với biến chủng mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cụ thể là việc GDP quý III bị giảm sâu.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành những quyết sách kịp thời để phòng chống sự lây lan của dịch bệnh và phát triển kinh tế đảm bảo an sinh xã hội. Đặc biệt là Nghị quyết ngày 11/10/2021 về ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả của dịch Covid-19”, cùng với các chính sách đảm bảo an sinh xã hội khác. Điều này đã “cởi trói” dần cho nền kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh doanh được hoạt động trở lại trong trạng thái bình thường mới, lưu thông giữa các tỉnh, thành phố đã cởi mở hơn, kinh tế dần hồi phục và tăng trưởng trở lại ở quý IV.
Đây là số liệu về GDP của Việt Nam trong năm 2021 được thể hiện qua các quý.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, GDP năm 2021 tăng 2,58% so với cùng kỳ năm 2020 là một thành công lớn của nước ta trong việc phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất - kinh doanh.
Tuy nhiên, năm 2021, kinh tế Việt Nam cán đích với mức tăng trưởng GDP là 2,58%, thấp hơn so với mức tăng 2,91% năm 2020, cũng thấp hơn so với mục tiêu đặt ra là 6,5%. Đây cũng là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Ta thấy đường biểu đồ cho hai ngành nghề Nông lâm nghiệp và thủy sản và ngành Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm rất xa so với hai ngành Dịch vụ và Công nghiệp và xây dựng. Điều này cho thấy tỉ trọng của hai ngành về nông lâm ngư nghiệp và thuế sản phẩm thấp hơn hai ngành còn lại.
Nhìn chung, GDP của các ngành nghề trong năm 2021 qua từng quý đều có xu hướng tăng, đặc biệt là vào thời điểm cuối năm. Ngành dịch vụ giảm mạnh trong quý III, tuy nhiên đến quý IV đã khởi sắc trở lại.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng các sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, kết quả hoạt động năm 2021 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, đóng góp 11.4% vào tổng GDP của toàn nền kinh tế.
Đầu năm 2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 42 tỷ USD, khi đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu đưa lên 44 tỷ USD. Kết thúc năm vừa qua, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành nông, lâm, thủy sản đã vượt 48,6 tỷ USD, vượt tới 4,6 tỷ USD so với con số Thủ tướng giao.
Trong bối cảnh nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh tế bị gián đoạn, thiệt hại nặng nề, sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, an ninh lương thực quốc gia, đóng góp vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, khẳng định rõ là một trong những trụ đỡ kinh tế vững chắc trong mọi hoàn cảnh.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực.
Ngành nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất trong khu vực Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản, với xu hướng tăng dần qua các quý, mặc dù trong quý II có sự giảm nhẹ.
Thủy sản là ngành chiếm tỉ trong thứ hai trong khu vực này, ở cả ba quý đầu đều có thể thấy được sự tăng trưởng cao tuy nhiên quý IV lại tăng trưởng ít hơn so với ba quý trước.
Về lâm nghiệp, tuy chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng trong năm 2021 ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm.
Như vậy, tăng trưởng khu vực Nông, lâm nghiệp và Thủy sản đã thể hiện rõ vai trò là bệ đỡ cho nền kinh tế trong năm 2021 khi sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng nông sản và những sản phẩm từ nông sản tăng so với năm 2020, góp phần đảm bảo an sinh xã hội đặc biệt người dân bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 và thực hiện tốt các mục tiêu quốc gia như xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Khu vực công nghiệp và dịch vụ chiếm 36.7% vào tỉ trọng GDP năm 2021. Sản xuất công nghiệp trong quý IV/2021 khởi sắc ngay sau khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ. Năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng lên so với năm 2020. Mức tăng trưởng này của ngành công nghiệp trong bối cảnh toàn cầu và Việt Nam chịu tác động nặng nề của đại dịch covid-19 là điểm sáng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế năm 2021.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng xấp xỉ 6,8%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,2%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm, ngành khai khoáng giảm 6,2%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm và ngành xây dựng tăng 0,6%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2021 tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% so với năm 2020 (năm trước tăng 3,3%).
Với ngành dịch vụ, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4 đã ảnh hưởng nghiêm trọng. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.
Quý IV/2021 so với quý III/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 28,1%; vận chuyển hành khách tăng 48,4%, luân chuyển hành khách tăng 51,3% và vận chuyển hàng hóa tăng 31,8%, luân chuyển hàng hóa tăng 28,4%; khách quốc tế tăng 62,7%. Tính chung năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 3,8% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 6,2% (năm 2020 giảm 3%); vận tải hành khách giảm 33% (năm 2020 giảm 29,6%) và luân chuyển giảm 42% (năm 2020 giảm 34,1%); vận tải hàng hóa giảm 8,7% (năm 2020 giảm 5,2%) và luân chuyển hàng hóa giảm 1,8% (năm trước giảm 6,7%). Khách quốc tế giảm 95,9% so với năm trước.
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp (còn được gọi là thuế tiêu dùng trừ trợ cấp hoặc thuế VAT trừ trợ cấp) là một hình thức thuế tiêu dùng được áp dụng trên một số loại hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mua vào một giá trị nhất định. Mức thuế trợ cấp trừ sản phẩm có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nếu mức thuế này quá cao, nó có thể làm giảm tiêu cực sự tiêu dùng và đầu tư, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Đối với khu vực Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm, GDP đạt 479990.53 tỷ VND, tương đương chiếm 9.3% trong tổng GDP của Việt Nam vào năm 2021.
Tăng trưởng kinh tế năm 2022 phục hồi tích cực với những tiến triển tốt và đồng đều trên cả 3 khu vực.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam cao lên trong thời gian 2015-2019 và lần đầu sau nhiều năm vượt qua mốc 7% trong năm 2018 và 2019. Do đại dịch Covid-19 xuất hiện năm 2020, bùng phát năm 2021, nên 2 năm này tốc độ tăng thấp chỉ bằng trên dưới một nửa mấy năm trước, nhưng vẫn nằm trong nhóm nước đứng hàng đầu thế giới có tốc độ tăng trưởng dương.
Đặc biệt năm 2022, tăng trưởng GDP theo mục tiêu tăng 6-6,5%, nhưng ước thực tế đã có tốc độ tăng rất cao, lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ đã vượt qua 8%.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 10.9% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 36,7%; khu vực dịch vụ đóng góp 43.3% và còn lại là 9.1% từ đóng góp của khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế. Ngành nông nghiệp tăng 2,88%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 6,13%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
Năm 2022, sản xuất nông lâm thủy sản duy trì tăng trưởng ổn định, giữ vững vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Nuôi trồng thủy sản phát triển khá do nhu cầu và giá xuất khẩu các sản phẩm thủy sản trọng điểm như cá tra, tôm nuôi tăng; tuy nhiên khai thác thủy sản biển gặp nhiều khó khăn do giá nhiên liệu ở mức cao.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Sản lượng lúa mùa ước đạt 8,21 triệu tấn, tăng 151,9 nghìn tấn; sản lượng một số cây lâu năm tăng khá như sầu riêng ước tăng 25%; mít tăng 16%; cam tăng 8,2%; chè búp tăng 3,4%; cà phê (nhân) tăng 2,8%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12/2022 tăng 11,4% so với cùng thời điểm năm trước; tổng số gia cầm tăng 4,8%; tổng số bò tăng 3,1%.
Nuôi trồng cá tra phát triển khá do giá cá tra nguyên liệu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long và nhu cầu thị trường thế giới tăng cao. Sản lượng cá tra quý IV/2022 ước tăng 5,2% so cùng kỳ năm trước; tính chung năm 2022 ước tăng 10,2% so với năm trước.
Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng năm 2022 tăng khá cao so với 2 năm trước (2020 tăng 4,38%, 2021 tăng 3,58%); tăng cao hơn so với tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ 2016-2021 (7,78% so với 6,86%).
Chiến tranh giữa Nga và Ukraine nổ ra thời điểm đầu năm 2022 đã đẩy giá sản phẩm ngành năng lượng tăng mạnh đột biến không những trên thế giới mà cả ở Việt Nam. Theo thống kê của Tổng Cục Thống Kê (TCTK), chỉ số giá nhập khẩu nhiên liệu trong năm 2022 đạt mức cao ( tăng 35% so với thời điểm cùng kỳ), tuy mức tăng có giảm so với năm 2021 nhưng mức giảm không đáng kể. Và theo như dự báo giá năng lượng trong thời gian tới vẫn chưa có dấu hiệu giảm khi chiến sự giữa hai nước vẫn đang rất căng thẳng. Việc tăng giá nhập khẩu nhiên liệu đã kéo theo giá nguyên vật liệu xây dựng trong năm 2022 cũng tăng (gần 7%). Đây cũng là mức tăng cao nhất từ năm 2019 tới nay.
Ngành công nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2022 ước tăng 7,8% so với năm trước, trong đó nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng trưởng cao.
Ngành Công nghiệp chế biến chế tạo chiếm tỉ trọng lớn nhất trong ngành công nghệp và trong bốn quý có tốc độ tăng trưởng trung bình là 8.3% .Sự tăng trưởng lớn nhất xảy ra từ Quý 3 đến Quý 4 (20.01%), có thể cho thấy một sự phục hồi mạnh mẽ hoặc một sự gia tăng đột biến trong hoạt động kinh tế của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo trong quý cuối năm.
Khu vực dịch vụ được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng năm 2022 đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,15% so với năm trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,93%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 40,61%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,03%, đóng góp 0,53 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 7,80%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm. Riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 7,6%, làm giảm 0,13 điểm phần trăm do dịch Covid-19 đã được kiểm soát.
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm cho năm 2022 là 9.1% và cho năm 2021 là 9.3%. Điều này cho thấy mức độ hiệu quả của chính sách thuế này đã giảm đi một chút từ năm 2021 đến năm 2022. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức khá cao, chỉ thấp hơn một chút so với năm trước. Điều này có thể phản ánh sự ổn định trong việc thực thi chính sách thuế và hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ sản phẩm trong thời gian qua.
Đây là số liệu về GDP của Việt Nam trong năm 2023 được thể hiện qua các quý.
GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng trưởng của các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10.8%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36.1%; khu vực dịch vụ chiếm 44,1%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9%
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng tích cực, trong đó kim ngạch xuất khẩu một số nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, ứng dụng mô hình công nghệ cao trong nuôi tôm thẻ chân trắng đã đem lại hiệu quả kinh tế.
Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2023 tăng 3,88% so với năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,74% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,71%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2023 chỉ tăng 3,02% so với năm trước, là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 1,0 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%, là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,93 điểm phần trăm. Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,18%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,79%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 3,17%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 7,06%, đóng góp 0,51 điểm phần trăm.
Các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2023 tăng 6,82% so với năm trước, cao hơn mức tăng 2,01% và 1,75% của các năm 2020-2021.
Một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,82% so với năm trước, đóng góp 0,86 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 9,18%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,24%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,24%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm.
Sự giảm nhẹ từ 9.1% xuống 9% trong tỷ lệ Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm so với GDP từ năm 2022 đến năm 2023 có thể cho thấy chính phủ đang tiến hành điều chỉnh nhẹ chính sách thuế và trợ cấp để duy trì sự cân đối giữa thu và chi và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Năm 2024, tình hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn còn nhiều biến động lớn, phức tạp khó lường và đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều nền kinh tế lớn, trong đó có các đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thậm trí rơi vào tình trạng suy thoái; xung đột quân sự Nga - Ukraina, mới đây là Israel - Hamas chưa có hồi kết. Việt Nam tiếp tục cam kết thực hiện mạnh mẽ, có hiệu quả chiến lược phát triển bền vững trong thế kỷ 21 thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn, đặc biệt là: Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Đây là căn cứ chiến lược để Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có cơ chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững…”.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tiếp tục thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp cho việc phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào tình hình xuất khẩu, khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu, cùng với việc tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do và xử lý tốt các rủi ro thương mại - công nghệ giữa các nước siêu cường và xu hướng mất giá của các đồng tiền trong khu vực so với đô la Mỹ.
Nhiều tổ chức quốc tế dự báo, năm 2024, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đương mục tiêu mà Quốc hội đưa ra (khoảng 6%-6,5%). Trong đó, Standard Chartered dự báo cao nhất ở mức 6,7%. Ngân hàng HSBC dự báo ở mức 6,3%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo kinh tế Việt Nam đứng thứ 20 thế giới với mức tăng 5,8%, VinaCapital dự báo ở mức 6,5% nhờ sự phục hội của xuất khẩu và các ngành sản xuất. Nhiều chuyên gia kinh tế và tổ chức khác dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam ở mức xung quanh 6% (Minh Đức, 2024).
Các mức dự báo khác nhau trên cho thấy, nền kinh tế Việt Nam năm 2024 vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố không ổn định và còn nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, với mức tăng trưởng 6%-6,5% mà Quốc hội đã đề ra không phải là không thể thực hiện được. Với sự nỗ lực của tất cả các cấp, các ngành, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế, mức GDP năm 2024 sẽ đạt được ở mức 6%-6,2%.
Một số đề xuất để tăng trưởng kinh tế để có thể đạt được kết quả như dự báo:
Một là, Chính phủ cần rà soát, đánh giá lại những chính sách vĩ mô về phát triển kinh tế - xã hội; kịp thời bổ sung, chỉnh sửa những hạn chế, bất cập, tạo điều kiện thuận lợi để các ngành, các cấp, các địa phương có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và đến năm 2030; tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; kịp thời xử lý những bất cập nhằm khơi thông nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế;
Hai là, thực hiện các giải pháp hữu hiệu về thu hút nguồn vốn đầu tư; đẩy nhanh đầu tư công gắn với trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp, các đia phương trong việc giải ngân và lựa chọn nhà đầu tư để đảm bảo nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong đầu tư.
Ba là, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới; nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín quốc gia, doanh nghiệp trong hoạt động giao thương quốc tế.
Bốn là, đẩy nhanh chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế; đảm bảo thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế số đến 2030.
Năm là, tập trung phát triển mở rộng một số lĩnh vực, ngành nghề đóng vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế, như: lĩnh vực công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo…
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế thông qua các hoạt động kết nối với ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… tham gia sâu vào các thể chế quốc tế lớn, như: Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), đặc biệt là tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Từ đó, giúp cho việc tăng cơ hội tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Điều này đã có tác động và tạo điều kiện rất lớn đối với các hoạt động phối hợp, liên kết giữa các địa phương, các ngành kinh tế trong cả nước; tạo thuận lợi về giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế; là những nơi có thế mạnh trong quá trình hội nhập, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thuận lợi trong xuất, nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, cũng chịu sức ép cạnh tranh trực tiếp và gay gắt không chỉ từ các quốc gia phát triển mà còn cả với các quốc gia tương đồng. Hội nhập kinh tế đòi hỏi từng địa phương và từng bộ, ngành phải nắm được những thế mạnh, tiềm năng, sự khác biệt của từng nơi để có sự sắp xếp và phân công lao động hợp lý nhằm phát triển bền vững.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là một trong những điều kiện căn bản để Việt Nam có nhiều cơ hội, tăng thêm nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; nhiều chương trình hợp tác quốc tế đem lại lợi ích to lớn cho các bên liên quan. Đây là những nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Trong giai đoạn 2021-2023, tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, cùng với đại dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các nền kinh tế tới. Song, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, kinh tế nước ta vẫn có nhiều điểm tích cực so với nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Năm 2022, cùng với cả thế giới, kinh tế Việt Nam phải đối đầu với những biến động khó lường, như: xung đột quân sự Nga - Ukraina dẫn đến nhiều hệ lụy ảnh hưởng tiêu cực đến các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam; việc đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19, sự tăng vọt của giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào… Song, do Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách phù hợp, đặc biệt là thực hiện khẩu hiệu “vừa chống dịch vừa phục hồi sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu kép”, kinh tế đã có bước phục hồi tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; GDP tăng ở mức 8,02% so với năm 2021, cao nhất trong 10 năm qua; quy mô đạt 9.513 triệu tỷ đồng, tương đương 391,92 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành đạt 188,1 triệu đồng/lao động, tương đương 8.083 USD, tăng 622 USD so với năm 2021. Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện.
Năm 2023, nhìn chung đã đạt được những mục tiêu lớn cơ bản; kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 4,16%, thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái cơ bản ổn định mặc dù thị trường tài chính, tiền tệ thế giới có nhiều biến động lớn; các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Theo Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 tăng 5,05% so với năm 2022, cao hơn tốc độ tăng của năm 2020 và 2021 - thời điểm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.