title: “Ảnh hưởng của đại dịch covid đối với tình hình xuất khẩu của Việt Nam”
author: “Phan Thanh Trọng”
date: “2024-03-24”
output: html_document:
toc: true
number section: true
toc_float: true
code_folding: show
code_download: true
word_document:
toc: true
pdf_document:
toc: true

I.Phần mở đầu

Lý do chọn đề tài

Đại dịch COVID-19 được ghi nhận các ca bệnh đầu tiên vào cuối tháng 12/2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc, sau đó nhanh chóng lây lan và bùng phát tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Nhìn chung, dịch bệnh đã ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu, gây gián đoạn chuỗi cung ứng nhiều sản phẩm hàng hóa của thế giới, đình trệ trong sản xuất - kinh doanh; suy giảm nhu cầu tạm thời từ các quốc gia bị ảnh hưởng bởi đại dịch đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, ảnh hưởng tới tăng trưởng toàn cầu.

Việt Nam có độ mở cửa của nền kinh tế khá lớn và có vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao thương với các nước nên dịch bệnh sẽ ảnh hưởng toàn diện đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và các hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Vì vậy em quyết định chọn đề tài “PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM”.

Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung phân tích, đánh giá những tác động của dịch Covid-19 đến tình hình xuất khẩu của Việt Nam; nhận diện quy mô, mức độ ảnh hưởng; từ đó đề ra những giải pháp khắc phục hậu quả của dịch Covid-19, hỗ trợ thúc đẩy tăng tưởng kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam sau đại dịch.

Đối tượng nghiên cứu

Tác động của dịch Covid-19 đến tình hình xuất khẩu của Việt Nam với một vài mặt hàng xuất khẩu đại diện như: thủy sản, gạo, dệt may, hàng điện tử, cà phê.

Phạm vi nghiên cứu

Chia làm 2 giai đoạn:

  • Giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch từ năm 2017-2019

  • Giai đoạn trong đại dịch từ năm 2020-2022

Ý nghĩa đề tài

Đề tài đã khái quát được một số vấn đề chung về tác động của dịch Covid-19 đến tình hình xuất khẩu của 6 mặt hàng cụ thể (thủy sản, dầu thô, dệt may, hàng điện tử, cà phê, rau quả) từ đó đưa ra nhận định về từng loại mặt hàng để đề ra những giải pháp khác nhau giúp khắc phục hậu quả của dịch Covid-19, hỗ trợ thúc đẩy tăng tưởng kinh tế và hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu sau đại dịch.

Các phương pháp nghiên cứu và nguồn thông tin sử dụng

  • Phân tích dữ liệu thống kê: Sử dụng dữ liệu thống kê từ các nguồn chính thức như Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để xem xét xu hướng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu, nhóm sản phẩm xuất khẩu chính và thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn này.
  • Nghiên cứu văn bản và tài liệu: Tìm kiếm và xem xét các bài báo, nghiên cứu, sách, luận văn, và tài liệu khác liên quan đến xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tương ứng. Các nguồn này có thể bao gồm các bài báo khoa học, báo cáo nghiên cứu, chính sách chính phủ, tài liệu từ các tổ chức quốc tế và các bước đi cụ thể mà Việt Nam đã thực hiện để nâng cao hoạt động xuất khẩu.
  • II.TỔNG QUAN

    Bối cảnh tình hình xuất khẩu trong nước

    Sau khi đạt mức kỷ lục về kim ngạch xuất khẩu vào năm 2017 thì chỉ số này bắt đầu có xu hưởng giảm mạnh về mức độ tăng trưởng so với năm trước. Một phần là do xung đột gay gắt cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã khiến tình hình kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam bị ảnh hưởng khá tiêu cực. Mặt khác, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 từ tháng 03/2020 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Các thị trường đối tác thương mại lớn của Việt Nam như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Pháp… đã sụt giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu. Các đơn hàng lớn cũng được thông báo hoãn khi biên giới các quốc gia được thông báo đóng cửa để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam chịu tác động kép khi vừa cải thiện được khâu nguyên liệu đầu vào thì lại vướng mắc ngay tại thị trường đầu ra. Do vậy, tăng trưởng xuất khẩu năm 2020 tụt giảm hơn 31% so với năm 2019.

    Sang năm 2021, sự bùng phát của đợt đại dịch COVID-19 lần thứ 4 khó kiểm soát hơn đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm trong quý II-2021 tăng mạnh. Trong đó, số người thất nghiệp lên tới gần 1,2 triệu người, số lượng người thiếu việc làm khoảng 1,1 triệu người. Lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khó khăn do thiếu lao động cho thấy dấu hiệu của sự đứt gãy về cung - cầu lao động, gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ, dẫn tới sự đứt gãy về nguồn cung sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường.

    A.Thuận lợi

    Được giá bởi bộ tài chính như sau :

    Năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 244,72 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 69,20 tỷ USD, tăng 15,9%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,52 tỷ USD, tăng 12,9%, chiếm 71,7% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2017). Loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 tăng 12,7% so với năm 2017.

    Năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 82,10 tỷ USD, tăng 17,7%, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ USD, tăng 4,2%, chiếm 68,8% (tỷ trọng giảm 2,5 điểm phần trăm so với năm trước).

    Năm 2020 là một năm khó khăn đối với hoạt động thương mại quốc tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tình hình kinh tế - xã hội thế giới chịu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 dẫn tới sự đứt gẫy một phần thương mại toàn cầu và chuỗi cung ứng sản xuất. Tuy nhiên, do những biện pháp kiểm soát dịch tốt, cũng như những cố gắng của toàn nền kinh tế, tình hình xuất - nhập khẩu Việt Nam đã dần phục hồi vào cuối năm. Xuất khẩu duy trì tăng trưởng khá ở mức 6,5%.

    Bức tranh kinh tế thế giới năm 2021: trên đà quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng : Năm 2021 là một năm đầy biến động đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng, nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, sự nỗ lực chủ động vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xúc tiến thương mại đã giúp duy trì sản xuất và xuất khẩu, với tổng kim ngạch kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Riêng khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%.

    Bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2022: Nhiều gam màu sáng, tối đan xen : Năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,4%; giá xuất khẩu hàng hóa tăng 7,09% và lượng hàng hóa xuất khẩu tăng 3,09%; cán cân thương mại đạt thặng dư, ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD, ghi dấu ấn xuất siêu 7 năm liên tiếp. Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2022 với kim ngạch đạt 109,1 tỷ USD, tiếp đến là Trung Quốc đạt 58,6 tỷ USD, tăng 4,8%, xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 24,2 tỷ USD tăng 10,3%, Nhật Bản đạt 20,3 tỷ USD, tăng 19,4%. Ngoài ra, năm 2022 chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong xuất khẩu tới các nước, như Hà Lan và Đan Mạch, cùng tăng 36,2%.

    B.Khó khăn

    Trong nước, làn sóng dịch Covid-19 bùng phát từ cuối tháng Tư với biến chủng mới có tốc độ lây lan nhanh chóng, nguy hiểm diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương, đặc biệt tại các địa phương kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Cần Thơ… đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, an toàn của người dân và phát triển kinh tế – xã hội.

    Trong khi đó, nền kinh tế của chúng ta có độ mở lớn, năng lực nội tại và sức chống chịu, nhưng khả năng thích ứng vẫn còn hạn chế. Hơn nữa, nền kinh tế đang trong quá trình phát triển và chuyển đổi, gặp phải những vấn đề tồn tại từ trước đó chưa thể khắc phục hoàn toàn. Điều này tạo ra những khó khăn và thách thức đối với hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu.

    Hoạt động sản xuất bị ảnh hưởng tiêu cực do nguồn cung bị gián đoạn và giá nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào tăng cao. Giá nguyên liệu đầu vào tăng cao đã ảnh hưởng đến nguồn cung và sức mua trong nước, làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp.

    Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa trên thị trường thế giới giảm sút do khó khăn kinh tế ngày càng nặng nề ở các nước phát triển sau xung đột tại Ukraine và mức lạm phát cao ở châu Âu, dẫn đến sự giảm sút rõ rệt trong sức mua.

    III.Chương I : Các mặt hàng chủ yếu

    Trong giai đoạn năm 2017 đến năm 2022, tình trạng sản xuất trong nước và xuất khẩu đã trải qua nhiều biến động từ dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng, suy thoái nền kinh tế toàn cầu cho đến các cuộc chiến tranh xung đột . Có nhiều mặt hàng đã bị ảnh hưởng do những nguyên nhân trên nhưng cũng có những mặt hàng vẫn ghi nhận những thành tựu nổi bật trên thị trường quốc tế. Và trong bài tiểu luận này, tôi sẽ phân tích 6 mặt hàng gồm : 1.Thuỷ sản

    2.Gạo

    3.Cà phê

    4.Hàng dệt may

    5.Hàng điện tử

    I.NHÓM THUỶ SẢN, GẠO VÀ CÀ PHÊ

    Tình hình xuất khẩu chung

    Là 4 mặt hàng xuất khẩu nổi trội của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ đô mỗi năm, vì vậy kì vọng sau đại dịch nhu cầu sẽ được phục hồi và đạt tăng trưởng tốt. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng xâm nhập mặn và lạm phát giá do các cuộc xung đột trên thế giới. Tuy nhiên, với những chính sách và các biện pháp hỗ trợ kịp thời của Chính phủ đã giúp tháo gỡ những khó khăn và kết quả được thể hiện qua biểu đồ sau:

    THUỶ SẢN:

    library(xlsx)
    data1 <- read.xlsx("D:\\THUD\\Trị giá các mặt hàng xuất khẩu.xlsx", sheetIndex = 1, header = T)
    data2 <- read.xlsx("D:\\THUD\\Các thị trường xuất khẩu.xlsx", sheetIndex = 1, header = T)
    library(dplyr)
    ## 
    ## Attaching package: 'dplyr'
    ## The following objects are masked from 'package:stats':
    ## 
    ##     filter, lag
    ## The following objects are masked from 'package:base':
    ## 
    ##     intersect, setdiff, setequal, union
    library(tidyverse)
    ## ── Attaching core tidyverse packages ──────────────────────── tidyverse 2.0.0 ──
    ## ✔ forcats   1.0.0     ✔ readr     2.1.5
    ## ✔ ggplot2   3.5.0     ✔ stringr   1.5.1
    ## ✔ lubridate 1.9.3     ✔ tibble    3.2.1
    ## ✔ purrr     1.0.2     ✔ tidyr     1.3.0
    ## ── Conflicts ────────────────────────────────────────── tidyverse_conflicts() ──
    ## ✖ dplyr::filter() masks stats::filter()
    ## ✖ dplyr::lag()    masks stats::lag()
    ## ℹ Use the conflicted package (<http://conflicted.r-lib.org/>) to force all conflicts to become errors
    library(scales)
    ## 
    ## Attaching package: 'scales'
    ## 
    ## The following object is masked from 'package:purrr':
    ## 
    ##     discard
    ## 
    ## The following object is masked from 'package:readr':
    ## 
    ##     col_factor
    names(data1) <- c('Năm', 'Thủysản', 'Càphê', 'Gạo','Hàngdệtmay','Hàngđiệntử')
    p <- data1 %>% select( Năm, Thủysản, Càphê, Gạo)
    
    p %>% ggplot(aes(x = Năm, y = Thủysản, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Thủysản), vjust = 3, color = 'black') +
      geom_line(color = "red", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu thuỷ sản năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch (2017-2019) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là +5,05% năm 2018, -2,93% năm 2019. Nhìn chung trước đại dịch tốc độ tăng trưởng vẫn khá ổn định, trong năm 2019 do ảnh hưởng từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung và tình hình ngập mặn tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đã khiến sản lượng nuôi trồng thủy sản giảm dẫn đến xuất khẩu giảm 2,93%

    Giai đoạn trong đại dịch (2020-2022) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là -1,47% năm 2020, +5,53% năm 2021 và +23,38% năm 2022

    Năm 2020: Đại dịch Covid-19 kéo dài cả năm 2020 với nhiều biến chủng mới đã làm gián đoạn hoạt động thương mại thuỷ sản toàn cầu, thay đổi xu hướng tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản, tác động mạnh tới nhập khẩu thủy sản, hoạt động xuất khẩu bị gián đoạn.Ngành cá tra đã có xu hướng giảm từtháng 3/2019 nên khi thế giới áp dụng lệnh cách ly và đặc biệt khi Trung Quốc thông báo tìm thấy virus Corona trên bao bì sản phẩm đông lạnh, kim ngạch xuất khẩu cá tra càng giảm mạnh.

    Đặc biệt, hạn mặn lịch sử năm 2020 khiến nhiều người dân đối mặt với khủng hoảng. Tình trạng thiếu nước kéo dài làm mực nước trên các kênh trục xuống thấp, nhiều tuyến kênh rạch khô cạn, dẫn đến tình sạt lở. Về khai thác thủy sản vào những tháng cuối năm thời tiết trên không thuận lợi cho hoạt động khai thác khi liên tục xuất hiện áp thấp nhiệt đới và các cơn bão tại vùng biển miền Trung. Ủy ban châu Âu tiếp tục duy trì cảnh báo “thẻ vàng” đối với sản phẩm hải sản xuất khẩu Việt Nam…

    Năm 2021: Quý I/2021, Việt Nam đã kiểm soát tốt đại dịch trong năm 2020 xuất khẩu thủy sản tiếp tục với hy vọng mới, phục hồi sản xuất, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu, thị phần có cơ hội tăng lên khi các đối thủ khác như Ấn Độ, Ecuador… đang vật lộn ới dịch bệnh. Tuy nhiên, các doanh nghiê …p chế biến xuất khẩu thủy sản của Viê …t Nam đứng trước nhiều khó khăn, khi giá cả vật liệu đầu vào có xu hướng tăng cao, cước vận tải biển không ngừng tăng, đặc biệt là cước tàu đi Mỹ và EU.

    Qúy II/2021, Covid-19 lại bùng nổ với biến chủng mới, khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tuy nhiên do có sự chuẩn bị nguồn cung từ các tháng trước và sự hồi phục nhu cầu tại 2 thị trường lớn Mỹ và EU và xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng tăng mạnh.

    Quý III/2021, giãn cách kéo dài, áp lực lên chuỗi sản xuất, gần 50% các nhà máy sản xuất, chế biến tôm và cá tra phải đóng cửa, nhiều doanh nghiệp đã phải tăng thêm chi phí để đầu tư trang bị cho lực lượng lao động sản xuất “3 tại chỗ”, chi phí kiểm tra sức khỏe đội ngũ vận chuyển khi lưu thông hàng hóa…Chuỗi cung ứng bị gián đoạn gây áp lực rất lớn lên các doanh nghiê …p xuất khẩu thủy sản.

    Quý IV/2021, cơ bản đã kiểm soát được tình hình dịch bệnh, Chính phủ vào cuộcquyết liệt giúp doanh nghiệp lưu thông hàng hóa, khôi phục sản xuất vì vậy ngành đã có những phục hồi nhất định, khôi phục được chuỗi cung ứng để lấy lại đà tăng trưởng (5,53%) và đạt được kết quả vượt sự mong đợi.

    Năm 2022 là năm có tốc độ tăng trưởng vượt bậc với 23,38% nguyên nhân là do sau khi tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát đã giúp nhu cầu được phục hồi đồng thời các địa phương cũng đã áp dụng khoa học kĩ thuật trong việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, giảm tác động của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn giúp tăng sản lượng và chất lượng xuất khẩu.

    CÀ PHÊ:

    p %>% ggplot(aes(x = Năm, y = Càphê, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Càphê), vjust = 3, color = 'black') +
      geom_line(color = "red", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu cà phê năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch (2017-2019) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là +1,02% năm 2018, -10,02% năm 2019.Trước khi xảy ra đại dịch tình hình xuất khẩu không mấy khả quan khi tăng trưởng thấp và trong năm 2019 tốc độ tăng trưởng giảm đến 19,02% do hai nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới là Brazil và Indonesia sắp vào vụ thu hoạch và tình trạng khó khăn của ngành hàng cà phê còn tiếp diễn do việc nguồn cung đang cao hơn cầu.

    Giai đoạn trong đại dịch (2020-2022) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là -4,25% năm 2020, +12,06% năm 2021 và +31,99% năm 2022

    Thị trường cà phê năm 2020 trải qua khó khăn kép khi giá cà phê vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài 4 năm thì đại dịch COVID-19 lan rộng toàn cầu, khiến nhiều nền kinh tế bị đóng băng kéo theo nhu cầu cà phê giảm sút. Thêm vào đó, tình trạng thiếu container rỗng cũng tác động không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Niên vụ 2020 – 2021, sản lượng cà phê sẽ còn giảm khoảng 15% do ảnh hưởng bởi đợt mưa lũ hồi tháng 10 và hạn hán hồi tháng 5 và tháng 6. Theo Cục Chế biến và Phát triển Thị trường Nông sản, vụ cà phê năm nay của Việt Nam bị mất mùa và thu hoạch trễ hơn so với các năm trước nên chưa tạo áp lực lên thị trường.

    Sang năm 2021 và 2022 xuất khẩu cà phê tăng mạnh lần lượt là +12,06% năm 2021 và +31,99% năm 2022 nguyên nhân là do sự hỗ trợ của các ngành các cấp, đặc biệt là sự năng động sáng tạo, ứng dụng công nghệ và nỗ lực vượt khó của các doanh nghiệp nên sản lượng cà phê thu hoạch tăng 21% ngoài ra xuất khẩu cà phê còn được hưởng lợi do đại dịch, tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng đã làm cho lượng tồn kho cà phê tại các kho cảng trên thế giới đã giảm xuống mức thấp nhất, thiệt hại do Covid và tiếp tục giãn cách xã hội làm tăng cường nhu cầu tiêu thụ cà phê tại nhà.

    GẠO:

    p %>% ggplot(aes(x = Năm, y = Gạo, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Gạo), vjust = 3, color = 'black') +
      geom_line(color = "red", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu gạo năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch (2017-2019) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là +16,2% năm 2018, -8,29% năm 2019. Nhìn chung trước khi xảy ra đại dịch tình hình xuất khẩu vẫn thuận lợi riêng 2019 là năm nước ta phải chịu nhiều thiên tai do biến đổi khí hậu và nạn xâm nhập mặn tại vựa lúa lớn nhất cả nước là Đồng Bằng Sông Cửu Long dẫn đến xuất khẩu giảm 8,29%.

    Giai đoạn trong đại dịch (2020-2022) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là +11,17% năm 2020, +5,37% năm 2021 và +5,09% năm 2022. Mặc dù phải chịu ảnh hưởng từ đại dịch nhưng gạo là một mặt hàng tăng trưởng khá ấn tượng qua các năm trong đại dịch nguyên nhân là do việc ký nhiều hiệp định thương mại mang tầm chiến lược lớn như CPTPP, EVFTA đã tạo điều kiện cho gạo Việt Nam bứt phá, trong đó việc thuế suất giảm bằng 0% đã tạo sức cạnh tranh tốt cho Việt Nam. Đây được xem là cơ hội tốt để các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh các mặt hàng gạo đặc sản và có chất lượng cao đáp ứng chuẩn khá cao vào một số thị trường.

    Từ năm 2020-2022 chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú, với các mặt hàng gạo xuất khẩu chủ yếu như gạo thơm các loại, gạo cao cấp, gạo nếp, gạo janopica…Các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng đến việc nâng cao chất lượng gạo, truy xuất nguồn gốc và hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn cao của các thị trường xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, đưa vào các giống lúa đạt chuẩn, cải tiến dây chuyền công nghệ xay xát, chế biến.

    Thị trường xuất khẩu gạo khá rộng và đa dạng, cơ cấu thị trường có xu hướng chuyển dịch sang các thị trường Châu Âu, Châu Phi, giảm tỷ trọng thị trường Châu Á. Năm 2020 Việt Nam xuất khẩu sang 31 thị trường các nước, sang năm 2021 giảm còn 28 thị trường và năm 2022 là 29 thị trường các nước trên thế giới. Gạo được xuất khẩu nhiều nhất sang Philippines với giá trị kim ngạch 1.056,28 triệu USD, tiếp theo là Trung Quốc 463,03 triệu USD; Ga Na 282,29 triệu USD; Malaysia 237,32 triệu USD; Bờ biển Ngà 207,52 triệu USD…

    Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, cùng với Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 03/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030”. Việc ban hành và thực thi Nghị định 107 được đánh giá là bước tiến mới về thể chế, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo và công tác điều hành xuất khẩu theo hướng mở, xây dựng thể chế, tạo ra môi trường minh bạch, thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu gạo. Chính sách thông thoáng đã tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng thị trường mà không cần ủy thác qua doanh nghiệp khác, đẩy mạnh xuất khẩu các loại gạo cao cấp, gạo đặc sản đang có nhu cầu tiêu thụ lớn từ các thị trường như Trung Quốc, EU, Châu Phi, Tiểu vương quốc A rập thống nhất, Arập Xêút, Hồng Kông, Đài Loan…

    Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp cùng các Bộ, ngành, Hiệp hội Lương thực Việt Nam triển khai và hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện hiệu quả các FTA đã ký kết để tận dụng tối đa cơ hội thị trường, duy trì các thị trường truyền thống và mở rộng ra các thị trường tiềm năng. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại mặt hàng gạo thông qua các Chương trình xúc tiến thương mại Quốc gia, Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia các Hội chợ triển lãm về nông sản, gạo ở nước ngoài, tìm kiếm đối tác nhập khẩu, đồng thời tiếp tục xây dựng và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam.

    II.HÀNG DỆT MAY:

    p1 <- data1 %>% select(Năm,Hàngdệtmay )
    p1 %>% ggplot(aes(x = Năm, y = Hàngdệtmay, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Hàngdệtmay), vjust = 3, color = 'black') +
      geom_line(color = "red", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu hàng dệt may năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch (2017-2019) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là +16,7% năm 2018, +7,71% năm 2019. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng trước đại dịch rất tốt nhờ các hiệp định thương mại FTA. Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 thị trường.

    Giai đoạn trong đại dịch (2020-2022) tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm lần lượt là -9,2% năm 2020, +9,93% năm 2021 và +14,62% năm 2022

    Năm 2020 tốc độ tăng trưởng giảm 9,2% nguyên nhân là do cơ cấu xuất khẩu mặt hàng dệt may có sự thay đổi lớn. Các mặt hàng truyền thống như áo jacket, quần, áo các loại và các loại quần áo thời trang, hàng cao cấp đều giảm xuống. Do đại dịch Covid-19 lan rộng trên toàn cầu từ đầu quý II/2020, nhu cầu mua sắm thời trang trên thế giới đã giảm mạnh, nhường chỗ cho các mặt hàng thiết yếu, các mặt hàng phòng chống dịch bệnh. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xoay chuyển từng bước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thế giới và duy trì sản xuất, xuất khẩu giữ chân người lao động qua việc chuyển sang sản xuất và tăng xuất khẩu các nhóm hàng cần thiết cho phòng chống dịch và sản phẩm sử dụng nhiều trong nhà để bù đắp lượng đơn hàng xuất khẩu truyền thống.

    Bước sang năm 2021 và 2022 xuất khẩu ngành dệt may đã phục hồi và tăng trưởng ấn tượng lần lượt là +9,93% năm 2021 và +14,62% năm 2022 nguyên nhân là nhờ vào hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được ký kết vào giữa tháng 11/2020 đã tạo ra động lực, cơ hội cho dệt may Việt Nam và thay thế một số thị trường mà đại dịch Covid-19 vẫn chưa kiểm soát được và đang ảnh hưởng lớn đến thị trường của dệt may Việt Nam như châu Âu. Các doanh nghiệp cũng đã thích nghi với tình hình mới luôn chủ động tìm kiếm các đơn hàng. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề cập tới góc độ khối doanh nghiệp FDI tiếp tục đầu tư mới và mở rộng sản xuấ giúp ngành dệt may duy trì tăng trưởng xuất khẩu.

    III.HÀNG ĐIỆN TỬ:

    p2 <- data1 %>% select(Năm,Hàngđiệntử )
    p2 %>% ggplot(aes(x = Năm, y = Hàngđiệntử, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Hàngđiệntử), vjust = 3, color = 'black') +
      geom_line(color = "red", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu hàng điện tử năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Có thể nói xuất khẩu hàng điện tử là thế mạnh của Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng của ngành hàng này lần lượt là +12,48% năm 2018, +22,83% năm 2019, +22,77% năm 2020, +13,53% năm 2021, +9,73% năm 2022, tăng đều qua các năm bất chấp ảnh hưởng của dịch bệnh đối với kinh tế toàn cầu.

    Nguyên nhân là do kể từ khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chính thức nổ ra đầu năm 2018 thì triển vọng phát triển của ngành sản xuất điện tử, máy tính và linh kiện được nhiều chuyên gia đánh giá là sáng sủa khi Việt Nam có cơ hội đón sóng đầu tư của các tập đoàn công nghệ lớn.

    Các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt hiểu quả cao khi liên tục được các tập đoàn tầm cỡ như Samsung, Intel, Mitsubishi,… đã giúp cho ngành sản xuất hàng điện tử của Việt Nam bức phá đạt được những thành tựu ấn tượng trong thời gian vừa qua.

    IV.TỔNG QUAN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH ĐỐI TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM:

    Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh các xu thế điều chỉnh cấu trúc và đặc điểm thương mại quốc tế bởi sự lây lan của dịch bệnh làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình mô hình hóa và đánh giá rủi ro. Trong bối cảnh đó, cấu trúc thương mại hàng hóa của Việt Nam chứng kiến sự thay đổi với sự sụt giảm rõ rệt ở các mặt hàng, như nhiên liệu, máy móc, cơ khí, thép… Trong đó, nhu cầu đối với các mặt hàng, như thuốc và thiết bị bảo hộ, thực phẩm… tăng lên nhanh chóng. Thương mại dịch vụ du lịch giảm mạnh. Các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã làm giảm năng suất và khối lượng sản xuất. Chưa kể, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người lao động, gây tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực tại các nhà máy sản xuất. Cùng với đó, lượng cung hàng hóa thiết yếu không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của người dân. Ngoài ra, các biện pháp đối phó với dịch bệnh làm gián đoạn nhiều chuỗi sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, ảnh hưởng tới quá trình đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, làm gián đoạn khâu sản xuất, tạo ra sự đứt gẫy trong chuỗi cung ứng.

    IV.Chương 2: THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

    A.Tình hình chung

    Hiện nay 3 thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ

    names(data2) <- c('Năm', 'EU', 'TrungQuốc','HoaKỳ')
    
    
    ggplot(data2, aes(x = Năm)) +
      geom_line(aes(y = EU, group = 1, color = "EU"), size = 1) +
      geom_point(aes(y = EU, group = 1), color = "black") +
      geom_line(aes(y = TrungQuốc, group = 1, color = "TrungQuốc"), size = 1) +
      geom_point(aes(y = TrungQuốc, group = 1), color = "black") +
      geom_line(aes(y = HoaKỳ, group = 1, color = "HoaKỳ"), size = 1) +
      geom_point(aes(y = HoaKỳ, group = 1), color = "black") +
      labs(title = "Biểu đồ xuất khẩu tới các thị trương năm 2017-2022",
           x = "Năm",
           y = "Triệu đô la") +
      scale_color_manual(values = c("EU" = "blue",
                                    "TrungQuốc" = "red",
                                    "HoaKỳ" = "green"),
                                    
                         labels = c("EU",
                                    "TrungQuốc",
                                    "HoaKỳ")) +
                              
      theme_minimal() +
      theme(legend.position = "bottom")
    ## Warning: Using `size` aesthetic for lines was deprecated in ggplot2 3.4.0.
    ## ℹ Please use `linewidth` instead.
    ## This warning is displayed once every 8 hours.
    ## Call `lifecycle::last_lifecycle_warnings()` to see where this warning was
    ## generated.
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_line()`).
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_point()`).
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_line()`).
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_point()`).
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_line()`).
    ## Warning: Removed 1 row containing missing values or values outside the scale range
    ## (`geom_point()`).

    B.Các thị trường thành phần

    I.Trung Quốc

    Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng hóa quan trọng sang Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 2017 đến 2022. Sự gia tăng xuất khẩu này đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

    Bất chấp các ảnh hưởng từ đại dịch kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Trung Quốc đạt 57,7 tỷ USD, tăng gần 55% so với năm 2021. Xuất khẩu của Việt Nam đến Trung Quốc chiếm tỷ trọng 15,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

    Trong giai đoạn này, xuất khẩu của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may. Các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam bao gồm Hoa Kỳ, Châu u và các nước trong khu vực ASEAN. Tuy nhiên, Trung Quốc đã nổi lên như thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với mức tăng trưởng ấn tượng từ năm 2018 đến 2022.

    Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi gần Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và giao thương giữa hai nước. Khoảng cách gần giữa hai quốc gia giúp giảm thời gian và chi phí vận chuyển, đồng thời tăng tính linh hoạt trong việc đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của thị trường Trung Quốc.

    Việt Nam đã đa dạng hóa danh mục sản phẩm xuất khẩu sang Trung Quốc. Không chỉ dừng lại ở ngành dệt may và nông nghiệp, Việt Nam đã mở rộng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như điện tử, linh kiện, gỗ, thủy sản, đồ gia dụng và các sản phẩm gia công khác. Sự đa dạng hóa này đã giúp Việt Nam tận dụng được tiềm năng và cơ hội từ thị trường Trung Quốc.

    Qua các năm, chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều cải cách cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển xuất khẩu. Điều này bao gồm việc đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đẩy mạnh hợp tác công tư, cung cấp hỗ trợ tài chính và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu.

    Việt Nam đã chú trọng đẩy mạnh chất lượng sản phẩm và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, an toàn và tuân thủ các quy định kỹ thuật của thị trường Trung Quốc. Điều này đã tạo sự tin tưởng và uy tín cho sản phẩm Việt Nam trên thị trường Trung Quốc.

    Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết nhiều hiệp định thương mại như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên biên giới (CP-TPP) và Hiệp định Liên minh kinh tế xuyên biên giới (RCEP). Các hiệp định này đã tạo ra cơ hội và đồng thời giúp giảm các rào cản thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc.

    II.EU

    Nhờ kí kết các hiệp định thương mại đặc biệt là hiệp định EVFTA mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng liên tục.

    Theo số liệu của Bộ Công Thương và Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và EU (gồm 27 thành viên) giai đoạn 8/2020-7/2022 ghi nhận sự tăng trưởng liên tục ở cả góc độ xuất khẩu và nhập khẩu. Phần lớn các dữ liệu này thể hiện các tín hiệu lạc quan, cho thấy EVFTA đã có tác động tích cực với thương mại hai chiều.

    Trong 5 tháng đầu thực thi EVFTA (tức 5 tháng cuối năm 2020), kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU đạt 15,62 tỷ USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ 2019. Năm 2021 và 7 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ từ Việt Nam sang EU lần lượt là 40,12 tỷ USD và 14,1%, 27,69 tỷ USD và 21,39%. Tính chung trong 02 năm thực thi EVFTA (từ tháng 8/2020 đến hết tháng 7/2022), tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU đạt 83,4 tỷ USD, đạt trung bình 41,7 tỷ USD/năm.

    với tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 41,7 tỷ USD/năm, trong so sánh với số liệu xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019 (33,5 tỷ USD/năm), kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU trung bình năm giai đoạn hai năm đầu thực thi EVFTA cao hơn so với giai đoạn trước đó là 24%.

    Năm 2020, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm từ Việt Nam sang EU giảm 1,82%, kết quả này được xem là khả quan hơn rất nhiều so với mức giảm 5,9% trong 7 tháng đầu năm 2020. Trên thực tế, chỉ trong 5 tháng cuối năm khi EVFTA có hiệu lực, xuất khẩu sang khu vực này đã quay đầu tăng trở lại ở mức 3,8%, giúp thu hẹp mức giảm cả năm. Trong bối cảnh nhập khẩu của EU từ thế giới năm 2020 giảm 11,52%, mức giảm này của Việt Nam được xem là một tín hiệu tích cực.

    Năm 2021, năm đầu tiên Hiệp định có hiệu lực đầy đủ trong cả 12 tháng, xuất khẩu sang EU đã đạt tốc độ tăng trưởng 14,1%, cao hơn đáng kể mức tăng trưởng bình quân xuất khẩu sang thị trường này giai đoạn 2016-2019 (8,2%/năm).

    7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu sang EU với mức tăng 21,4%, đã vượt mức tăng 16,6% kim ngạch xuất khẩu chung đi các thị trường.

    III.Hoa Kỳ

    Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, mặc dù chịu ảnh hưởng từ dịch covid nhưng chính sách chống dịch của Hoa Kỳ là mở cửa nền kinh tế nên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng.

    Theo phân tích của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, dư địa xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ có nhiều thuận lợi. Bởi đây là thị trường giàu tiềm năng với hơn 300 triệu người tiêu dùng. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mới chiếm khoảng 4% tổng kim ngạch nhập khẩu.

    Hơn nữa, đây là thị trường với nhiều sắc tộc, đa dạng về nhu cầu, mức độ sử dụng; thói quen tiêu dùng theo hướng tiết kiệm và an toàn, thân thiện môi trường, theo đó ưa chuộng các sản phẩm từ quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.

    Việt Nam xuất khẩu mặt hàng nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu thô, hàng hoá thiết yếu, bổ trợ cho nhu cầu thị trường Hoa Kỳ nên bị tác động không đáng kể bởi các yếu tố khó khăn của thị trường, điều này tuy thuận lợi, song cũng là bất lợi vì chưa đem lại giá trị gia tăng cao.

    Bên cạnh đó các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, bộ ngành, địa phương đối với doanh nghiệp xuất khẩu theo hướng tăng trường bền vững và cân bằng thương mại với Hoa Kỳ cũng như quan hệ đối tác toàn diện là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng cường hợp tác kinh tế hai nước trong giai đoạn hiện nay và trong tương lại.

    IV. Những thách thức và cơ hội trong xuất khẩu của Việt Nam sau đại dịch

    A. Thách thức

    Gián đoạn chuỗi cung ứng: Đại dịch đã gây ra sự gián đoạn lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự cố trong vận chuyển, giảm sản lượng, và hạn chế về lao động có thể ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam.

    Sức cạnh tranh tăng cao: Các quốc gia khác đang tăng cường sản xuất và tăng cường xuất khẩu để phục hồi kinh tế sau đại dịch. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh.

    Giảm nhu cầu toàn cầu: Sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu có thể dẫn đến giảm nhu cầu cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu từ Việt Nam.

    Biến đổi khí hậu và môi trường: Biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường có thể ảnh hưởng đến năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản.

    Biến động tỷ giá hối đoái: Biến động tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.

    Chi phí logistics: Chi phí logistics có thể tăng do gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu.

    Rào cản thương mại: Các nước có thể áp dụng các rào cản thương mại như thuế quan, hạn chế nhập khẩu, v.v., ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam.

    B. Cơ hội

    Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu: Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt là tăng cường xuất khẩu sang các thị trường mới nổi và các thị trường tiềm năng khác.

    Chuyển đổi số và công nghệ thông tin: Chuyển đổi số có thể giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường quốc tế thông qua các kênh trực tuyến và các nền tảng thương mại điện tử.

    Tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế: Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế thông qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do và xây dựng các mối quan hệ đối tác mới.

    Phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng: Tăng cường nghiên cứu và phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng có thể giúp Việt Nam nâng cao chất lượng và giá trị của hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu.

    VI. Kết luận

    library(WDI)
    ## Warning: package 'WDI' was built under R version 4.3.3
    tmp <- WDI(indicator = 'NE.EXP.GNFS.CD', country = c('VNM'),start = 2017, end = 2022)
    data3 <- tmp %>% select(year,NE.EXP.GNFS.CD)
    names(data3) <- c('year','Export')
    data3 %>% ggplot(aes(x = year, y = Export, group = 1)) +
      geom_col( fill = "yellow") +
      
      geom_text(aes(label = Export), vjust = 4, color = 'black') +
      geom_line(color = "blue", linewidth = 0.8) +
      geom_point(color = "brown") +
     labs(title = "Biểu đồ giá trị xuất khẩu năm 2017-2022", x = "Năm", y = "Triệu đô la")

    Nhìn chung mặc dù trải qua 3 năm đại dịch covid rất khó khăn nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng trưởng dương trong giai đoạn từ năm 2017-2022, nhờ vào biện pháp chống dịch hiệu quả và những chính sách hỗ trợ kịp thời của chính phủ.

    Có thể thấy, đại dịch COVID-19 tác động sâu rộng đến mọi khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu, với sự thay đổi nhanh chóng và đa dạng. Thương mại quốc tế lao dốc do đứt gãy chuỗi cung ứng, ngành dịch vụ sụt giảm nặng nề. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối mặt với tác động tiêu cực, nổi bật là tình trạng vỡ nợ, sản xuất đình trệ. Hành vi người tiêu dùng và thương mại có xu hướng thay đổi, tính bền vững và hiệu quả (tiêu dùng xanh, tiêu dùng tuần hoàn, giảm phát thải) trở thành xu hướng toàn cầu. Bên cạnh những ảnh hưởng về mặt kinh tế - thương mại, đại dịch COVID-19 đã điều chỉnh cấu trúc và đẩy nhanh xu thế thương mại quốc tế. Những thay đổi, điều chỉnh trong thương mại quốc tế giai đoạn hiện nay kéo theo những ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế, thương mại của Việt Nam. Các xu thế thương mại mới dần xuất hiện, nổi bật là: 1- Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng được ưu tiên; 2- Thương mại quốc tế thúc đẩy theo hướng hợp tác về công nghệ số; 3- Thương mại hướng tới phát triển bền vững; 4- Dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng theo hướng tin cậy, an toàn, bền vững; 5- Ưu tiên hợp tác song phương, khu vực và theo nhóm trong khi toàn cầu hóa chững lại. Những xu hướng này đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam; tận dụng được cơ hội và giải quyết được thách thức sẽ thúc đẩy nền kinh tế thích ứng nhanh chóng, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ toàn cầu, đồng thời phát triển theo hướng bền vững, xanh và thân thiện với môi trường.

    VII.Nguồn dữ liệu

    1. Tổng cục thống kê

    2. Tổng cục Hải Quan

    3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công thương

    4. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính

    5. WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới

    6. Cơ sở dữ liệu của world bank từ gói WDI về tổng xuất khẩu(NE.EXP.GNFS.CD)