Trong những năm gần đây, môi trường không khí luôn là vấn đề bức bối được sự quan tâm của nhiều nhà môi trường học và toàn thể người dân đang sinh sống tại mảnh đất hình chữ S này. Việt Nam ta có những khu đô thị, thành phố ngày càng phồn thịnh, đến mức sự xuất hiện cuẩ các cơ sở hạ tầng ngày càng dày đặc.
Để không gây loãng đề tài, vùng nghiên cứu cho bài tiểu luận sẽ được gói gọn cho thành phố Hồ Chí Minh, một thành phố năng động bậc nhất, có những thay đổi, tiến bộ ngày càng nhanh chóng.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố hoạt động kinh tế năng động nhất, là tỉnh thành đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nếu như năm 2001 tốc độ tăng GDP của thành phố là 7,4% thì đến năm 2005 tăng lên 12,2%. Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. TP.HCM chỉ chiếm 0,6% diện tích và 6,6% dân số so với cả nước nhưng tỷ trọng GDP của thành phố chiếm gần 1/3 GDP của cả nước. Với vai trò đầu tàu trong đa giác chiến lược phát triển kinh tê – xã hội, TP.HCM đã trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa – du lịch, giáo dục – khoa học kỹ thuật – y tế lớn.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế trên cũng đã kéo theo nhiều hậu quả trầm trọng và thách thức lớn về môi trường.
Tìm hiểu được thực trạng của ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng rõ rệt của nó đến các hoạt động kinh tế - xã hội của một thành phố, cụ thể ở đây là thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó hương đến sự phát triển bền vững cho môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chọn lọc qua những vấn đề lý luận, thực tiễn về ô nhiễm không khí trong môi trường hiện nay.
Phân tích những yếu tổ gây ô nhiễm không khí và thực trạng ô nhiễm môi trường không khí ở địa bàn TP HCM.
Đánh giá thực trạng ô nhiễm không khí môi trường của TP HCM và Đề xuất giải pháp hạn chế tính trạng ô nhiễm không khí tại TP HCM
Thời gian: Đề tài của tôi nghiên cứu về “Các yếu tố gây ảnh hưởng đến chất lượng không khí tại thành phố - thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó số liệu được thu thập giới hạn từ 2010 đến nay.
Không gian: Địa bàn nghiên cứu của đề tài bao gồm các quận cụ thể trong thành phố, khu vực đã và đang đô thị hóa, các huyện nằm trong vùng của thành phố.
Nội dung: Tổng thể các yếu tố gây ô nhiễm không khí; ảnh hướng của nó đến một số vấn đề của xã hội ( sức khỏe, giáo dục, đời sống thường nhật,..); Nhận định tác động của ô nhiễm môi trường không khí tại thành phố - thành phố Hồ Chí Minh.
Ô nhiễm môi trường không khí là một trong những vấn đề đã và đang được quan tâm hàng đầu. Tình trạng ô nhiễm ngày càng lan rộng cũng với sự hội nhập, phát triển liên tục về kinh tế - xã hội cuẩ các nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì cầng trở nên đáng báo động hơn. Việt Nam cũng không là một trường hợp ngoại lệ, bởi phát triển kinh tế - xã hôi phải liên tục đi đôi với bảo vệ môi trường. Đặc biệt là mức độ ô nhiễm, ô nhiễm không khí của ta cũng có tính trạng đáng báo động.
Đã và đang có nhiều dự án, chương trình. Điển hình trong số đó, dự án “Cảm ơn Dòng Hương” làm cảnh tỉnh mọi người trong việc bảo vệ lòng sông, dự án “Hạnh phúc xanh” với mục đích tăng sự kết nối giữa con người với cây xanh hơn. Hay ngoài nước có các hành động lớn cho thấy sự chuyển biến tích cực, chương trình 3R do Nhật Bản tài trợ, dự án “Xanh sony” do Sony tài trợ….
Với xu thế phát triển của thời đại, phương hướng của thành phố Hồ Chí Minh, nhiều nhà nghiên cứu từ sinh viên, giảng viên đến thạc sĩ, tiến sĩ đều chú trọng vào các vấn đề nghiên cứu.
Một trong những tác giả tiêu biểu, Lý Thị Nương - cô đã tìm hiểu thực trạng về ô nhiễm môi trường với đề tài “Ô nhiễm môi trường - thách thức lớn với sự phát triển kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh”.
Trên cơ sở các tài liệu bản thân đã thu thập, tham khảo các ý kiến người tiền nhiệm đi trước, tôi bắt tay vào thực hiện đề tài này. Hi vọng đề tài của mình sẽ giúp cho mọi người tiếp cận với vấn đề ô nhiễm môi trường không khí dễ dàng hơn, trực quan hơn đến các hoạt động đời sống, kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu tôi đã tiến hành tổng hợp tài liệu liên quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường không khí, số liệu đo đạc không khí tại thành phố Hồ Chí Minh, phòng Tài Nguyên môi trường các quận của thành phố, thêm vào đó là các cổng thông tin quan trắc. Từ đó cập nhật được nguồn dữ liệu liên tục nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Nghiên cứu về môi trường không khí TP HCM có những số liệu liên quan đến chất lượng không khí, dữ liệu quan trắc. Vì vây khi tổng hợp được các số liệu, tôi xử lí chúng thành SPSS, XLSX để tạo các bảng số liệu nhằm phục vụ trực quan hóa cho mục đích nghiên cứu
Cấu trức chính của bài tiểu luận sẽ gồm
Phần mở đầu: tổng quan, đôi nét giới thiệu về đề tài và các nội dung có liên quan
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về vấn đề gây ô nhiễm môi trường không khí
Chương 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường không khí ở TP.HCM
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị nhằm giảm tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ở thành phố Hồ Chí Minh
Phần kết luận: Tổng kết và nhận định chung nhất cho vấn đề đang bàn luận
Theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020 (khoản 12, Điều 3), ô nhiễm môi trường là sự biến đổi tính chất vật lý, hóa học, sinh học của thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên.
Có thể hiểu đơn giản, ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên đã bị nhiễm bẩn, các tính chất vật lý, sinh học, hóa học trong môi trường đất, nước, không khí bị thay đổi. Từ đó, gây tổn hại trực tiếp tới sức khỏe con người và sinh vật.
Nguồn gây ô nhiễm không khí có rất nhiều, sau cùng có 2 loại chính là nguồn tự nhiên và nhân tạo.
Núi lửa phun trào sẽ làm cho các khí lưu huỳnh, clo, metan,.. ở sâu bên trong ra ngoài. Việc phun trào này cũng chính là tác nhân khiến cho không khí ngày một ô nhiễm nặng nề.
Cháy rừng là một trong những nguyên nhân làm cho lương Nito Oxi ở trong không khí tăng đột ngột và đáng kể. Nhất là những đám cháy có quy mô lớn, thời gian dập tắt chúng cần rất nhiều thời gian vì vậy mà lượng Nito Oxit cũng hòa vào không khí nhiều hơn.
Gió, bụi, lốc xoáy, bão cũng là một tác nhân gây nên sự ô nhiễm không khí. Sau mỗi trận bão lớn, lượng khí thải NOx đều sản sinh ra rất lớn và khiến cho tỷ lệ ô nhiễm bụi mịn PM 2.5 và PM 10 tăng cao.Lượng khí thải khi chưa được thông qua xử lý, khi gặp phải các cơn gió nó sẽ đưa các hạt bụi bẩn này đi xa hàng trăm kilomet. Từ đây, sự ô nhiễm cũng sẽ được lan ra một diện rộng hơn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sinh vật và con người.
Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra
Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói của các nhà máy vào không khí. Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và trên các đường ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể được hút và thổi ra ngoài bằng hệ thống thông gió.
Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: Nhiệt điện; vật liệu xây dựng; hóa chất và phân bón; dệt và giấy; luyện kim; thực phẩm; các xí nghiệp cơ khí; các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ; giao thông vận tải; bên cạnh đó phải kể đến sinh hoạt con người.
Lượng khí thải ra từ các quá trình đã nói trên là vô cùng đáng kể. Cụ thể số liệu thu thập được vào năm 2021
library(xlsx)
library(ggplot2)
library(dplyr)
library(tidyr)
kt <- read.xlsx(file.choose(), header = T, sheetIndex = 1 )
kt_f <- select(kt, Types, X2021)
# Vẽ biểu đồ cột
ggplot(kt_f, aes(x = Types, y = X2021, fill = Types)) +
geom_col(stat = "identity", position = "dodge") +
geom_text(aes(label = X2021), vjust=1, color = 'black')
labs(title = "Lượng CO2 được xả thải vào năm 2021",
x = "Year",
y = "CO2 xả thải") +
theme_minimal()
## NULL
Qua kết quả trên ta thấy lượng CO2 được thải từ năng lượng than đá, dầu chiếm phần cao, các tiến trình công nghiệp cũng đưa ra môi trường một lượng không nhỏ.
Cụ thể hơn trong số các nguyên nhân ô nhiễm do nhân tạo, ta có thể kể đến như
Vì những năm gần đây, các loại phương tiện giao thông, cơ giới tăng nhanh. 70% lượng khí thải là do các phương tiện giao thông vận tải mà gây nên. Với những tiến bộ thì môi trường không khí của thành phố sẽ luôn trong tình trạng đáng báo động bởi lượng giao thông vận tải vô cùng lớn.
Ở nước ta hiện nay hoạt động xây dựng nhà cửa, đường xá, cầu cống,… rất mạnhh và diễn ra ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở các thành phố lớn.
Các hoạt động như xây dựng đào lấp đất, đập phá công trình, vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển thường gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô nhiễm bụi nồng độ bụi trong không khí ở các nơi có hoạt động xây dựng vượt trị số tiêu chuẩn cho phép tới 10-20 lần.
Ô nhiễm do rác thải từ các khu dân cư và khu thương mại chiếm 50-70 % tổng chất thải. Rác từ công sở, các công trình xây dựng, rác công nghiệp, nông nghiệp,…
Công tác thu gom rác thải chưa được thực hiện tốt, người dân thản nhiên vứt rác bừa bãi, việc xử lí chất thải còn yếu kém làm cho môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.
Lượng chất thải ở các bãi đất trống, hai bên lề đường, các bệnh viện ngày càng nhiều ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, chất lượng không khí và cảnh quan môi trường.
Tổng lượng chất thải rắn thông thường được thu gom Tổng lượng chất thải rắn thông thường thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.
Để có cái nhìn trực quan hơn, ta cùng quan sát vào biểu đồ thể hiện.
library(xlsx)
library(ggplot2)
library(dplyr)
sh <- read.xlsx(file.choose(), header = T, sheetIndex = 1 )
names(sh) <- c('noithu', 'datchuan', 'chuadatchuan')
sh_l <- sh %>%
pivot_longer(cols = c('datchuan', 'chuadatchuan'), names_to = "Loairac", values_to = "Value")
ggplot(sh_l, aes(x = noithu, y = Value, fill = Loairac)) +
geom_bar(stat = "identity", position = "dodge") +
labs(title = "thống kê chất thải rắn được xử lý bình quân một ngày phân theo vùng",
x = "Nơi thu gom rác",
y = "Lượng rác",
fill = "Value") +
theme_minimal()
So với các quốc gia trên thế giới thì chất lượng môi trường ở Việt Nam đã giảm dần qua từng năm. Một cuộc khảo sát được điều phối bởi các nhà khoa học từ các trung tâm nghiên cứu môi trường của Đại học Yale và Đại học Columbia ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, những người đã thực hiện nghiên cứu này trong nhiều năm tại 132 quốc gia. Trong chỉ số môi trường chung, Việt Nam xếp thứ 79 - phần thấp hơn của nhóm trung lưu. Nhưng theo các tiêu chí chi tiết cụ thể, Việt Nam thậm chí còn có hiệu suất tồi tệ hơn, bao gồm cả chất lượng không khí có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, nước và gánh nặng bệnh tật về môi trường.
Theo kết quả điều tra của EPI, chất lượng không khí ở Việt Nam đang tụt lại trong số 10 nước tồi tệ nhất trên thế giới, đứng thứ 123, và dự báo ô nhiễm không khí sẽ tiếp tục xấu đi trong tương lai gần và có thể rơi xuống vị trí thứ 125. Thông tin này, trong khi báo động, giờ đây mới mẻ, vì các cuộc điều tra độc lập bởi các cơ quan của Việt Nam đã đi đến kết luận rằng ô nhiễm không khí của đất nước đã trở nên tồi tệ và trở nên trầm trọng. Ngô Đức Thế - giáo sư người Việt Nam của Đại học Quốc gia Singapore. Khói và bụi do xe tải tạo ra là những yếu tố chính làm giảm chất lượng không khí ở Việt Nam, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nút giao thông, các công trình khu vực xây dựng, ô nhiễm không khí có dấu hiệu gia tăng, nhất là trong các đô thị lớn. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 tăng 1,07 lần. Còn tại Hà Nội, nếu không có giải pháp nào thì nồng độ phát thải bụi mỗi năm có thể đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.
Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí có nhiều nguyên nhân khác nhau, song tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Dù cho các hoạt động tuyên truyền có được đẩy mạnh đến đâu, các biện pháp ngắn hạn và dài hạn được thi hành, nhưng quan trọng vẫn là bản thân con người chúng ta có chịu thấu hiểu diều đó hay không. Nhiều người vô tư vứt rác bừa bãi ( cả công khai lẫn lén lút) bất kể địa điểm, thậm chí cả ở nơi có biển “cấm đổ rác”… Tệ hại hơn họ còn coi đó là điều bình thường, không hề cảm thấy xấu hổ. Ý thức của người dân về bảo vệ môi trường kém, chưa hiểu rõ hết tác hại của những hàn động ấy đến môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường. Các cơ sở pháp lí , chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tôi phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng, giáo dục, phòng ngửa răng đe đối với các hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉ hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết nên không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đến với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của các doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường.
Những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hàn vi của các cá nhân , tổ chức, các hoạt động kinh tế , các qui trình kĩ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu cho ngành sản xuất. Tuy nhiên hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa bao lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế…trong việc bảo vệ môi trường.
Để theo dõi và đánh giá chất lượng không khí, TP.HCM đã đặt sáu trạm quan trắc chất lượng không khí tại các cửa ngõ ra vào TP.HCM là vòng xoay Hàng Xanh, ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ, vòng xoay Phú Lâm, vòng xoay An Sương, ngã sáu Gò Vấp, ngã tư Nguyễn Văn Linh – Huỳnh Tấn Phát. Kết quả quan trắc trong quý III – 2010 cho thấy, nồng độ bụi đo đạc được tại cả sáu trạm này đều vượt xa tiêu chuẩn cho phép từ 90%-100%. Thậm chí, có thời điểm nồng độ bụi quan trắc lên tới 2,1 mg/m3, gấp 7 lần chuẩn cho phép. Khu vực ô nhiễm bụi đứng đầu “bảng phong thần” là ngã tư Đinh Tiên Hoàn-Điện Biên Phủ (nồng độ bụi là 0,53 mg/m3) và ngã sáu Gò Vấp (nồng độ bụi là 0,73 mg/m3) trong khi chuẩn cho phép chỉ là 0,3 mg/m3. Mức độ ô nhiễm bụi tăng dần lên theo từng năm, từng quý.
Bản đồ vị trí các trạm khí tượng quan trắc
Năm 2007, trong chuỗi số liệu đo đạc về bụi tại sáu trạm quan trắc này, co ít nhất 81% giá trị đo đặc vượt chuẩn cho phép. Đến năm 2009 là 89% và trong quý 3-2010, con số này đã “bứt phá” lên 95%. Trong năm 2010, tại khu vực vòng xoay Hàng Xanh, tỉ lệ bụi ở quý một vượt chuẩn cho phép 82%, thì sang quý hai con số này là 83% và quý ba là… 93%. Tại khu vực ngã sáu Gò Vấp, nồng độ bụi luôn vượt chuẩn 100%. Không chỉ có bụi, nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí khác như SO, NO2… trên địa bàn thành phố luôn vượt tiêu chuẩn cho phép. Nồng độ NO2 trung bình quan trắc được trong quý 3-2010 là 0,15 – 0,22 mg/m3, có 39% giá trị vượt chuẩn cho phép. Trong đó, có giá trị vượt chuẩn đến 1.85 lần!
Theo nghiên cứu của Chi cục Bảo vệ Môi trường TP.HCM, áp lực lưu lượng giao thông quá lớn, trong đó chủ yếu là xe máy là nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm nặng nề tại TP.HCM. Số lượng xe máy khổng lồ là nguồn phát sinh ra các khí thải gây ô nhiễm. Kế đến là khí thải độc hại từ các khu chế xuất, khu công nghiệp… Nguồn ô nhiễm từ rác thải và sinh hoạt người dân chỉ chiếm một phần nhỏ.
Đây là điều rất đáng lo ngại vì bụi có tính axit tác động xấu đến sức khỏe con người, nhất là khi bị phơi nhiễm trong thời gian dài.Cụ thể, kết quả đo đạc cho thấy bụi có kích thước nhỏ hơn 2,1 mm chiếm 50% tổng lượng bụi (mùa khô) và con số này là 20% vào mùa mưa. Chính các hạt bụi mịn này mang tính axit, trong khi các hạt bụi lớn thường trung tính. Cũng cần nói thêm do bụi mịn có kích thước nhỏ nên khó sa lắng, vì thế mà chúng tông tại rất lâu trong không khí và phát tán rất xa. Mũi và đường hô hấp trên chỉ có khả năng loại các hạt bụi có kích thước lớn hơn 2,5mm, nên bụi mịn có kích thước này xâm nhập rất sâu vào phổi, thậm chí vào máu gây nên một số bệnh về hô hấp và tim mạch, rất nguy hiểm cho sức khỏe con người.
Nhằm có cái nhìn trực quan hơn, quan sát vào bảng đo lường các chỉ số AQI và mức độ ảnh hưởng của chúng đến chúng ta
Có thể kể đến gần đây nhất, chỉ số quan trắc quan sát chỉ số pm25 qua tháng 7/2023 thể hiện những điều đáng lo ngại. Chỉ số pm25 nghĩa là nồng độ các hạt bụi có kích cỡ nhỏ hơn 2,5 micrimet, được đó trên 1 m3 khối không khí. Với mức PM2.5 từ 25 đến 50 µg/m³ được coi là “không tốt cho sức khỏe” và có thể gây ra vấn đề sức khỏe đối với mọi người, đặc biệt là những người nhạy cảm.
library(xlsx)
library(ggplot2)
library(dplyr)
df <- read.csv(file.choose(), header = T)
df$date <- as.Date(df$date)
target_month <- df %>%
filter(format(date, "%Y-%m") == "2023-07")
ggplot(target_month, aes(x = pm25)) +
geom_histogram(binwidth = 5, fill = "skyblue", color = "black") +
labs(title = "Tần suất các chỉ số PM25 xuất hiện trong tháng 7 2023",
x = "PM2.5",
y = "tần suất xuất hiện")
Qua bảng dữ liệu được hiển thị dưới dạng histogram, ta có thể thấy chỉ số pm25 lúc nào cũng từ 40 trở lên, đôi lúc còn vượt quá chỉ số 100, lên đến 200. Trong khi đó, với mức pm25 trên 50 µg/m³ được coi là “xấu” và có thể gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí đang trong tình trạng đáng báo động.
Đánh giá mới nhất của UBND TPHCM về các nguồn ô nhiễm không khí cũng cho thấy: Khi thải từ các phương tiện giao thông và do hệ thống giao thông kém chất lượng là nguyên nhân trực tiếp. Gần 90% xe cộ ơt TP là xe máy, là loại động cơ thải ra rất nhiều khói bụi, CO và hydrocacbon. Tình trạng kẹt xe gia tăng càng làm cho nồng độ bụi hạt tăng cao. Số liệu tổng hợp ghi nhận: Tổng tải lượng bụi hạt, CO, NO2, CO2 từ nguồn khí thải của phương tiện giao thông, khí thải công nghiệp, khí thải từ đốt cháy các nguồn nguyên liệu trong sinh hoạt tại TP vào khoảng 60.000 tấn/năm. Trong đó, hơn 80% là tải lượng khí thải giao thông, hơn 14% là tải lượng khí thải công nghiệp.
Đặc biệt tại các trạm quan trắc ở ngã tư An Sương, ngã sáu Gò Vấp, ngã tư Đinh Tiên Hoàng-Điện Biên Phủ là nơi mật độ giao thông rất cao, liên tục ùn ứ, kẹt xe nên ô nhiễm bụi, hạt chì, tiếng ồn và các khí gây ô nhiễm khác vượt chuẩn gấp nhiều lần. Số liệu từ Sở GTVT TP.HCM, hiện TP có 3,6 triệu mô tô, xe gắn máy, 360.000 ô tô và mỗi ngày có 700.000 lượt xe gắn máy, 600.000 lượt ô tô từ các nơi lưu thông qua TP nhưng diện tích mặt đường chỉ có thể phục vụ nhu cầu lưu thông khoảng 2,5 triệu xe. Hiện nay 9,8% hộ dân tại TP có xe máy.
library(xlsx)
library(ggplot2)
library(dplyr)
pt <- read.xlsx(file.choose(), header = TRUE, sheetIndex = 1)
ggplot(pt, aes(x = Năm, y = cacbonic )) +
geom_col(position = "dodge") +
geom_text(aes(label = cacbonic), vjust = 1, color = "white") +
labs(x = "Năm diễn ra", y = "Tấn", title = "CO2 thất thoát trong mỗi năm")
Sự gia tăng liên tục của các phương tiện giao thông đã là một chỉ báo đáng lo ngại về chất lượng không khí, nhưng nguy hiểm hơn là chất lượng xăng dầu. Quan trắc tại TP, từ năm 2005 đến nay, nồng độ chì trung bình tăng 1,4 đến 2,4 lần. Nồng độ benzene, toluene và xylem tăng cao gấp 2 đến 4 lần ở những trục giao thông có lưu lượng phương tiện giao thông cao.
Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh có trên 14 khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó có 13 khu chính thức hoạt động, có trên 1100 dự án đầu tư, thu hút hơn 250000 lao động, kim ngạch xuất khẩu đạt 16 tỷ USD.
Hoạt động của các khu công nghiệp này đã mang lại sự chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tuy nhiên, sau nhiều năm hoạt động, nhiều bất lợi phát sinh từ các khu công nghiệp, khu chế xuất chính là vấn đề ô nhiễm môi trường.
Theo kết quả khảo sát của ngành chức năng, nguyên nhân gây ô nhiễm không khí của TP.Hồ Chí Minh chủ yếu từ hoạt động sản xuất của các nhà máy công nghiệp nằm ở các khu vực ngoại thành hoặc nằm ngay trong nội thành như các khu công nghiệp Tân Bình, khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất Linh Trung, các nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thép thủ Đức… và rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong đó rất nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất chưa trang bị hệ thống xử lý khí thải, khói bụi.
Cụ thể như trong số 170 trường hợp nhà máy, cơ sở sản xuất có phát sinh khí thải ra môi trường thì hiện cũng còn tới 81 doanh nghiệp chưa trang bị hệ thống xử lý khí thải đang ngày đêm thải ra lượng khói bụi rất lớn mang nhiều chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường vào không khí, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân sinh sống xung quanh. Điển hình như hàng loạt nhà máy công nghiệp sản xuất mì ăn liền, dầu thực vật, hóa chất, dệt nhuộm.. nằm dọc bên bờ kênh Tham Lương (quận Tân Bình) thường xuyên thải khói bụi độc hại vào không khí mỗi ngày đến nay vẫn chưa di dời.
Bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt ra với tất cá các hệ thống, chính trị các cấp, các ngành, các ngành các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn thể xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, xây dựng ý thức, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên- con người, xã hội.
Hai là, Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra giám sát về môi trường (thường xuyên, định kì, đột xuất); phối hợp chặt chẽ với các chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện tại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Ba là, chú trọng công tác quy hoạch, phát triển các khu, cụm, điểm, công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo.
Bốn là, chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việ cấp hay không các giấy phép đầu tư. Thực hiện công khai, minh bạch các quý hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Năm là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong đó những chế tài xử phạt phải thực sự đủ mạn để đủ sức răng đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Dưới góc độc của các chuyên gia, tiến sĩ Lê Việt Phú, giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam đề xuất, cần đưa thêm những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng không khí, nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng không khí. Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để gửi thông tin cho người dân sinh sống trong khu vực có nguy cơ cao. Thực hiện đa dạng hóa trong đầu tư về sản xuất năng lượng, chuyển đổi qua những dạng năng lượng khác ngoài năng lượng từ đốt than; tăng cường khuyến khích sử dụng những nguồn năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sử dụng thiết bị tiết kiệm năng lượng và những dự án giao thông công cộng. Ngoài ra, Phó giáo sư, Tiến sĩ Hồ Quốc Bằng đề xuất giải pháp kiểm tra khí thải xe gắn máy, loại bỏ xe gây ô nhiễm, kiểm soát nguồn khí thải từ các nhà máy phát sinh khí thải ô nhiễm với lưu lượng lớn, giảm kẹt xe. Về lâu dài cần thực hiện quy hoạch và phân vùng xả thải khí thải phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Quy định định mức xả thải khí thải từng nhà máy lớn, giảm xe cá nhân sử dụng năng lượng hóa thạch. Sau cùng thì thành phố Hồ Chí Minh cần kiểm soát phát thải khí thải hoạt động sản xuất công nghiệp, tiến tới xây dựng các định mức phát thải khí thải, giấy phép xả thải khí thải mỗi cơ sở sản xuất có nguồn phát thải lớn. Thành phố cần tiến hành nghiên cứu toàn diện về khả năng tiếp nhân xả thải khí thải từng khu vực cảu thành phố, Kết quả này sẽ làm cơ sở cho quy hoạch kinh tế - xã hội của thành phố, khu nào nên phát triển công nghiệp, khu nào nên phát triển dân cư.
Dưới góc độ của cơ quan quản lý, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh đang thực hiện giải pháp tuyên truyền, khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện di chuyển công cộng như xe buýt, metro, sử dụng nhiên liệu xăng sinh học thay thế nhiên liệu truyền thống. Thành phố cũng đưa việc giáo dục môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng vào các cấp học với nội dung và thời lượng phù hợp với nhận thức của từng lứa tuổi. Thành phố tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu các ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến sức khỏe của người dân như sử dụng kính, khẩu trang phù hợp khi tham gia giao thông hoặc khi đến các khu vực ô nhiễm, chọn thời gian di chuyển, chọn các tuyến đường đi phù hợp nhằm giãn mật độ giao thông, tránh các tác động của ô nhiễm không khí.
Thành phố cũng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí và xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm của các cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ, khu công nghiệp, cũng như trong hoạt động xây dựng; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả và các hình thức xử lý tạm thời như đình chỉ hoạt động, cấm hoạt động, buộc di dời trong trường hợp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra giám sát các nguồn thải mà đặc biệt là các nguồn thải lớn; thực hiện mở rộng, hiện đại hóa, tự động hóa mạng lưới quan trắc môi trường không khí, đảm bảo yêu cầu theo dõi, đánh giá hiện trạng và dự báo diễn biến chất lượng môi trường không khí, xây dựng và duy trì hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về môi trường không khí.
Ở Việt Nam ô nhiễm môi trường không khí đang ở mức báo động, đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh đang là mối quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như cộng đồng. Phần lớn các nhà máy, xí nghiệp ở đây chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm không khí hoặc có nhưng hoạt động không thật hiệu quả và đôi khi mang tính chất đối phó.
Quá trình phát triển kinh tế cùng với mức độ gia tăng đáng kể các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp thiếu sự quy hoạch đồng bộ, tổng thể lại càng gây phức tạp thêm cho công tác quản lý và kiểm soát ô nhiễm từ các nguồn thải.
Các phương tiện giao thông công cộng ngày càng gia tăng cùng với hiện trạng quy hoạch về mạng lưới các tuyến đường không đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân đã gây thêm ô nhiễm môi trường không khí. Các hoạt động giao thông vận tải, công nghiệp, và xây dựng là những nguồn chính gây ô nhiễm không khí, trong đó do giao thông gây ra chiếm tỷ lệ 70%. Đây là vấn đề vô cùng bức xúc, nó không chỉ làm suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng của người dân, đặc biệt là ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng, sự phát triển của trẻ em nói riêng và sự phát triển con người nói chung. Bởi vậy, sự phát triển kinh tế không thể ổn định và bền vững.
Việc giải quyết vấn đề ô nhiễm này vô cùng nan giải, đòi hỏi phải có sự cần một chiến lược dài, một sự phối hợp của tất cả các ban ngành và người dân trong việc bảo vệ môi trường và chấp hành đúng như pháp luật đã quy định. Tuy vậy bản thân mỗi công dân, dù chỉ là một ít vẫn phải chung tay phòng chống và đẩy lùi sự ô nhiễm.
https://aqicn.org/city/vietnam/ho-chi-minh-city/us-consulate/