library(tidyverse)
## Warning: package 'tidyverse' was built under R version 4.3.3
## Warning: package 'ggplot2' was built under R version 4.3.3
## ── Attaching core tidyverse packages ──────────────────────── tidyverse 2.0.0 ──
## ✔ dplyr 1.1.4 ✔ readr 2.1.5
## ✔ forcats 1.0.0 ✔ stringr 1.5.1
## ✔ ggplot2 3.5.0 ✔ tibble 3.2.1
## ✔ lubridate 1.9.3 ✔ tidyr 1.3.0
## ✔ purrr 1.0.2
## ── Conflicts ────────────────────────────────────────── tidyverse_conflicts() ──
## ✖ dplyr::filter() masks stats::filter()
## ✖ dplyr::lag() masks stats::lag()
## ℹ Use the conflicted package (<http://conflicted.r-lib.org/>) to force all conflicts to become errors
library(scales)
##
## Attaching package: 'scales'
##
## The following object is masked from 'package:purrr':
##
## discard
##
## The following object is masked from 'package:readr':
##
## col_factor
library(WDI)
## Warning: package 'WDI' was built under R version 4.3.3
ind <- WDIsearch('GDP per capita growth')
nt <- WDI(indicator = 'NY.GDP.PCAP.KD.ZG', country = c('VNM'))
d <- nt %>% select(year,NY.GDP.PCAP.KD.ZG)
d <- na.omit(d)
names(d) <- c('year','% Anual GDP')
head(d)
## year % Anual GDP
## 1 2022 7.228978
## 2 2021 1.699402
## 3 2020 1.937357
## 4 2019 6.392586
## 5 2018 6.467191
## 6 2017 5.909241
KHÁI QUÁT BỘ DỮ LIỆU
Sử dụng mã “NY.GDP.PCAP.KD.ZG” để lấy dữ liệu về tỷ lệ phần trăm tăng trưởng hàng năm của GDP bình quân đầu người dựa trên đồng nội tệ cố định.
GDP bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số giữa năm. GDP theo giá của người mua là tổng giá trị gia tăng của tất cả các nhà sản xuất thường trú trong nền kinh tế cộng với thuế sản phẩm và trừ đi mọi khoản trợ cấp không được tính vào giá trị của sản phẩm. Nó được tính toán mà không khấu trừ khấu hao tài sản cố định hoặc sự cạn kiệt và suy thoái tài nguyên thiên nhiên.
Và dùng mã “VNM” để chọn tỷ lệ phần trăm tăng trưởng hàng năm của GDP bình quân đầu người dựa trên đồng nội tệ cố định của nước Việt Nam
# 1.Lấy dữ liệu tỷ lệ phần trăm tăng trưởng hằng năm của Việt Nam từ 2018 tới 2022
nt2 <- WDI(indicator = 'NY.GDP.PCAP.KD.ZG', country = c('VNM'), start = 2008, end = 2012)
# 2.Đổi tên các biến trong bộ dữ liệu để dễ dàng phân tích
names(nt2) <- c("Country","MS1","MS2","Year","PerAnual")
# 3.Biểu đồ cột tăng trưởng GDP hàng năm
ggplot(nt2, aes(x = Year, y = PerAnual)) +
geom_bar(stat = "identity", fill = "lightblue") +
labs(title = "Tăng trưởng GDP của Việt Nam 2008 - 2012", x = "Năm", y = "Tăng trưởng GDP (%)")
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Đợt khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu và cũng ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam.Ngoài ra, sự biến động trong giá năng lượng: Việc tăng giá năng lượng, như giá dầu và điện,tác động tiêu cực đến các ngành công nghiệp và ảnh hưởng đến GDP.Không những thế, các vấn đề về tự nhiên như hạn hán hoặc lũ lụt, gây thiệt hại cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, ảnh hưởng đến GDP. Các biện pháp chính sách kinh tế không ổn định hoặc không hiệu quả gây lạm phát và gây rối loạn và tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế và GDP.
Tuy nhiên,sự gia tăng trong hoạt động kinh tế, bao gồm tăng trưởng sản xuất công nghiệp và dịch vụ, tạo đà cho tăng trưởng GDP.Nhà nước chú trọng việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng cường sản xuất, ảnh hưởng tích cực đến GDP.Sự gia tăng trong xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ có thể tăng doanh thu cho các doanh nghiệp và đóng góp vào tăng trưởng GDP.Các biện pháp chính sách kinh tế điều chỉnh giảm lạm phát, cơ cấu giá tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế và đóng góp vào tăng trưởng GDP.
Nguyên nhân nào khiến cho tỷ lệ tăng trưởng GDP Việt Nam 2012 lại giảm so với 2011 ?
Năm 2012, nền kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và không chắc chắn, bao gồm cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và chậm lại của nền kinh tế Mỹ. Sự không ổn định và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Giảm đầu tư công: Trong năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp hạn chế đầu tư công nhằm kiềm chế lạm phát và điều chỉnh tài chính công. Việc giảm đầu tư công có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP.
Tăng trưởng xuất khẩu chậm lại: Xuất khẩu là một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng GDP của Việt Nam. Năm 2012, tăng trưởng xuất khẩu có thể đã chậm lại do yếu tố yếu đối tác thương mại quốc tế và yếu tố cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Điều chỉnh chính sách kinh tế: Chính phủ Việt Nam có thể đã thực hiện một số điều chỉnh chính sách kinh tế trong năm 2012, nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định tài chính và cải thiện cân đối ngân sách. Những điều chỉnh này có thể có tác động tiêu cực ngắn hạn đến tăng trưởng GDP.
Biến động trong ngành nông nghiệp: Năm 2012, Việt Nam đã ghi nhận một số thiên tai và biến động thời tiết, bao gồm hạn hán và lũ lụt, gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp đóng góp quan trọng cho GDP, vì vậy sự giảm tăng trưởng trong ngành này có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng GDP chung.
# 1.Lấy dữ liệu tỷ lệ phần trăm tăng trưởng hằng năm của Việt Nam từ 2018 tới 2022
nt3 <- WDI(indicator = 'NY.GDP.PCAP.KD.ZG', country = c('VNM'), start = 2013, end = 2017)
# 2.Đổi tên các biến trong bộ dữ liệu để dễ dàng phân tích
names(nt3) <- c("Country","MS1","MS2","Year","PerAnual")
# 3.Biểu đồ đường kết hợp với trendline
ggplot(nt3, aes(x = Year, y = PerAnual)) +
geom_line(color = "lightblue") +
geom_point() +
geom_smooth(method = "lm", se = FALSE, color = "lightpink") +
labs(title = "Tăng trưởng GDP của Việt Nam 2013 - 2017", x = "Năm", y = "Tăng trưởng GDP (%)")
## `geom_smooth()` using formula = 'y ~ x'
Năm 2013,cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: Dù khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bắt đầu từ năm 2008, ảnh hưởng của nó vẫn còn kéo dài trong giai đoạn này. Sự không ổn định trong hệ thống tài chính toàn cầu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Biến động giá năng lượng: Giá năng lượng, như giá dầu, vẫn biến động mạnh trong giai đoạn này. Biến động giá năng lượng có tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp và nền kinh tế nói chung, có ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP.
Chính sách kinh tế không ổn định: Các biện pháp chính sách kinh tế vẫn chưa có hiểu quả sâu sắc, chỉ mới dừng lại ở việc giải quyết được một vài tiêu cực trong thời gian ngắn
Biến động thị trường quốc tế: Sự biến động trong thị trường quốc tế, bao gồm chiến tranh thương mại và biến động chính trị, tạo ra không chắc chắn và ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Tuy nhiên, đến năm 2014** tăng trưởng GDP Việt Nam đã phần nào có sự khởi sắc trở lại(ở mức 5,3% - 2014) và tiếp tục tăng mạnh ở năm 2015, nhờ Chính phủ đã chú trọng vào:
Đầu tư nước ngoài: Việt Nam tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao và sản xuất. Điều này có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP thông qua việc tạo ra việc làm mới, tăng năng suất và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Xuất khẩu: Việt Nam đã tiếp tục tăng cường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong giai đoạn này. Sự mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng cường hiệu quả sản xuất có thể đóng góp vào tăng trưởng GDP.
Đổi mới công nghệ: Việt Nam đã tăng cường đổi mới công nghệ và tăng cường năng lực sản xuất trong các ngành công nghiệp chủ chốt như điện tử, ô tô, và công nghệ thông tin. Sự nâng cao hiệu suất và chất lượng sản xuất có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng GDP.
Các tác nhân làm tỷ lệ GDP 2016 bị giảm nhẹ so các năm trước
Tăng trưởng xuất khẩu chậm lại: Xuất khẩu là một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng GDP của Việt Nam. Trong năm 2016, một số thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, như EU và Hoa Kỳ, đã trải qua sự chậm lại trong tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể làm giảm nhu cầu và giá trị xuất khẩu của Việt Nam, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP.
Sự giảm đầu tư công: Trong năm 2016, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện việc kiềm chế đầu tư công để kiểm soát lạm phát và điều chỉnh tài chính công. Việc giảm đầu tư công có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP, đặc biệt là trong các ngành liên quan đến cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế.
Biến động trong ngành nông nghiệp: Năm 2016, Việt Nam đã ghi nhận một số thảm họa thiên tai, bao gồm hạn hán và lũ lụt, ảnh hưởng đến ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp đóng góp quan trọng cho GDP, vì vậy sự giảm tăng trưởng trong ngành này có thể đóng góp vào sự giảm nhẹ của GDP.
Yếu tố chính sách kinh tế: Một số biện pháp chính sách kinh tế trong năm 2016 có thể đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP. Điều này có thể bao gồm việc áp dụng các biện pháp kiềm chế tín dụng và kiểm soát lạm phát, gây hạn chế cho hoạt động kinh doanh và đầu tư.
library(ggplot2)
# 1.Lấy dữ liệu tỷ lệ phần trăm tăng trưởng hằng năm của Việt Nam từ 2018 tới 2022
nt1 <- WDI(indicator = 'NY.GDP.PCAP.KD.ZG', country = c('VNM'), start = 2018, end = 2022)
# 2.Đổi tên các biến trong bộ dữ liệu để dễ dàng phân tích
names(nt1) <- c("Country","MS1","MS2","Year","PerAnual")
# 3.Vẽ biểu đồ
ggplot(nt1, aes(x = Year, y = PerAnual)) +
geom_line() +
geom_point() +
labs(title = "Tăng trưởng GDP của Việt Nam 2018 - 2022", x = "Năm", y = "Tăng trưởng GDP (%)")
Quan sát đường vẽ từ biểu đồ ta thấy được sự tăng trưởng của GDP Việt Nam năm 2018 và 2019 đang có sự ổn định với ngưỡng trên 6% cho mỗi năm, do giá cả của hàng hóa thế giới vận động theo xu hướng tăng,bên cạnh đó Việt Nam chủ trương, đẩy mạnh mở rộng sản xuất chú trọng chất lượng, đầu tư mạnh tay vào công nghệ sản xuất tiên tiến.Từ đó làm cho nền kinh phát triển vượt bậc ổn định. Nhưng 2020 và 2021 thì sự tăng trưởng này lại giảm một cách đáng kể và khá nghiêm trọng (xấp xỉ 2% cho năm 2020 và 1,5% cho năm 2021) đối với một quốc gia đang trong đà phát triển như Việt Nam.
Vậy tại sao lại có sự giảm sụt đáng báo động này ?
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là sự xuất hiện của Đại dịch Covid-19,các ngành dịch vụ giảm làm cho tăng trưởng GDP giảm; tăng trưởng sản lượng trong sản xuất chậm lại làm giảm tăng trưởng GDP ; tiêu dùng trong nước và xuất khẩu chậm hơn làm giảm tăng trưởng GDP.Không chỉ vậy, việc bị mất việc làm tạm thời và cắt nhân công nhằm giảm chi phí tối đa, các doanh nghiệp báo động đỏ,thu hẹp trong sản xuất đã gây nên sự giảm đáng kể tỷ trọng GDP của Quốc gia.Tuy nhiên Việt Nam được xem là nước Châu Á hiếm hoi có sự tăng trưởng cao hơn 1% trong khu vực.
Nhưng bằng nghị lực tự cường vốn có đã lâu, nền kinh tế thị trường trong 2022 đã tăng cao vượt ngưỡng mức 2018 lẫn 2019 (xấp xỉ 7,5%, theo báo cáo cuối năm 2022).
Nhờ đâu lại có sự phát triển mạnh mẽ đến thế ?
Đầu tiên phải nói đến về các ngành dịch vụ, tình hình Covid-19 của Việt Nam đã được kiểm soát tương đối chặt chẽ khiến cho du lịch Việt Nam được bước ra thời kì “ngủ đông”, hồi sinh lại nền kinh tế Việt Nam.
Xuất khẩu hàng hóa đã được tăng lên so với các năm Đại dịch. Từ các chiến lược mở rộng hợp tác toàn diện của Việt Nam với các nước.
Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công nhằm thúc đẩy ngành Công nghiệp Việt Nam. Bội thu ngân sách nhà nước.